TÔI


Thứ Ba, 14 tháng 5, 2013

ĂN MÀY DĨ VÃNG - Phần 4 - Chu Lai

ĂN MÀY DĨ VÃNG   - Phần 4 - Chu Lai



   Sau cái đêm chết tiệt đó, con người tôi bỗng trở thành bị ám ảnh. Cái ám ảnh về người đàn bà đã chết bỗng lột xác thành bà giám đốc sở đã làm tôi hụt hẫng và tê liệt. Cám ơn cậu, tôi nói với phó chủ tịch Quân, tớ mệt rồi, chán lang thang rồi, cậu để tớ ở lại đây thôi, về trước đi! Tớ sẽ trở lại sau và… cũng có thể không trở lại. Quân nhìn săm soi vào mắt tôi một lúc theo cái kiểu nhìn của thầy lang băm nhìn vào con bệnh đã tuyệt phương cứu chữa, lắc đầu: 
    - Tuỳ! Đã biết tính anh từ hồi ở rừng nên không dám cản. Phận đi sau chỉ xin được khuyên lão tiền bối một câu: Đời bây giờ khác nhiều rồi, cái gì đã qua là cho qua! Nếu vẫn không qua được, tốt nhất là đầu hàng và tháo chạy. 
    - Cái gì tháo chạy? 
    - Đừng nóng! Khiếp, con mắt lại bạc đi rồi kia kìa. Nói thiệt, anh Hai đừng buồn nghe! Ráo trọi những cái gì còn lại để nhận ra anh Hai ngày trước có lẽ chỉ là đôi mắt. Đôi mắt cứ chuyển màu bạc đi là y như rằng sắp có sấm sét. 
    - Thế à? - Tôi cười héo hắt - Mắt mình vẫn bạc thế à? Chán nhỉ! 
    - Nếu anh Hai dứt khoát ở lại thì cầm tạm hai chỉ vàng và năm trăm ngàn tiền mặt của thằng em để phòng thân những lúc cơ nhỡ… Anh cứ yên tâm, đây không phải là đồng tiền tham nhũng đâu. Tiền nuôi tôm mỗi năm trung bình thu vào mười đến mười lăm triệu của vợ chồng em đó. Cũng như tiền nhậu khi đêm là tiền em được hưởng phần trăm theo quy chế khi sáng nay em đã ký một hợp đồng làm lãi cho huyện ít nhất là trên hai trăm triệu. Cầm lấy đi, lòng thành của em mà. Đáng lẽ những người như anh Hai phải có cuộc sống khác kia và mỗi lần trở về phải được tỉnh đón tiếp như những người anh hùng mới phải lẽ. 
    - Thôi được, đưa mình một trăm, thiếu xin sau. 
    - Mau trở lại nhen! Anh Ba Thành và mấy anh còn sống sót dạo ấy nhắc đến anh hoài. Một ý kiến nhỏ, anh nghe hay không thì tuỳ: nếu ưng, vợ chồng em mời anh về trông coi giùm cái hồ nuôi tôm ba trăm hecta ở Long Thành. Nơi đó, cảnh đẹp, người hiền, mặc sức cho anh nghĩ ngợi, đọc sách và nghỉ ngơi, mùa nào thức ấy, mỗi tháng cầm lấy một cục tiền lên thành phố hay Biên Hoà đập phá chơi. 
    - Đi đi! - Tôi đẩy nhanh hắn vào xe để giấu đi mấy giọt nước mắt sắp ứa ra. Khốn khổ! Tuổi tác, bệnh tật, lang thang… Lần đi Biên Hoà thứ hai này sao cứ thấy bơ vơ xa lạ, động lòng một chút là có thể chảy nước mắt ra được ngay. Thật đúng là không còn ra cái hồn người nữa! 
    Đêm lang thang trong thành phố lạ, buồn day dứt! Gần sáng, mệt quá, tôi thuê một chiếc ghế bố ở cái bến cá sát mí sông ngủ tạm. Có trong tay một trăm ngàn của Quân, và cũng chừng ấy nữa nhờ bán chiếc xe đạp tàng tàng ngoài kia, tự dưng thấy vững dạ. Gần năm mươi tuổi đời, đi qua hai, ba cuộc chiến tranh, láng tráng dăm bảy ngành nghề, vinh nhục, lên voi xuống chó đủ cả, đêm nay đây, côi cút giữa xứ lạ quê người, toàn bộ vốn liếng tư trang còn độc hai trăm nghìn, nói đến cùng thế cũng là tươm, cũng còn hơn những thằng bạn không còn nữa, những thằng bạn mà thân thể đã tan rữa chẳng biết ở góc rừng nào! 
    Mùi cá, mùi mắm, mùi nước đái, mùi xào nấu, mùi sống nước và mùi lưu manh đĩ điếm lảng vảng cả đêm bủa vây lấy tôi, muốn nuốt chửng, hoà tan thể xác tôi vào cảnh đời bụi bặm và trường tồn ấy. Thì tôi chả đã rã rữa trong hàng trăm những cảnh đời đen bạc, uế tạp rồi đó sao? Muỗi bến cá cắn buốt như ong. Trằn trọc mãi không ngủ nổi, đến khi vừa chợp mắt đi được một chút thì trời đã tang tảng sáng, đã thấy thiên hạ nhộn nhạo trở dậy từ bao giờ. Chợt thấy đói bụng… Nhưng trời hỡi! Vừa sờ tay vào túi đã rụng rời vì toàn bộ số tiền hai trăm nghìn đã biến mất! Biến luôn cả đôi dép sứt quai dưới chân. Thế là vô sản. Tuyệt đối vô sản. Vô sản đến tận dái. Tôi cười nhạt trong ráng trời cũng một màu nhạt thếch. Đã quá quen với mọi nỗi đoạn trường mất mát, sự việc này chỉ khiến tôi hẫng hụt đi chút ít mà tuyệt nhiên không thấy buồn phiền phẫn nộ gì. Có khi lại còn nhen lên một chút vui vui. Đã khánh kiệt cho khánh kiệt trắng tay luôn. Hai trăm nghìn cho gần trọn một kiếp người, có cũng thế mà không có cũng vậy thôi. Vẫn là Không! Một số không to tướng. 
    Và buổi sáng đó, khi cả thành phố đã nhưng nhức cái nắng sánh vàng, tôi, một gã đàn ông 49 tuổi, nặng chưa đầy 45 kg, không vợ, không con, không tương lai, không hiện tại, không cắc bạc dính túi, chỉ có mảnh quá khứ phập phồng đập trong lồng ngực ọp ẹp, đầu trần chân đất, một mình mở cuộc hành quân đơn côi tới trụ sở nông nghiệp trong trạng thái thanh thản đến mênh mang. Tôi là kẻ không còn gì để mất mà lại đang đi tìm cái để còn. Nhẹ tênh lắm chứ! Siêu thoát lắm chứ! Ô hô!… 
    - Má… Cái ông kia đang khóc má kìa! 
    Một tiếng trẻ thơ vọng ra từ bên đường. Tôi cười, khẽ vẫy tay lại. Và để tỏ ra mình cũng biết chú ý đến lời con trẻ, đấng thiên thần đích thực của mọi kiếp người, của mọi người, tôi chúi đầu xuống vòi nước kỳ cọ mặt mày cẩn thận. Hãy đến với cố nhân (Nếu đúng cố nhân) trong dáng bộ đừng quá ăn mày ăn nhặt kẻo người ta sợ, người ta tránh. Một yếu nhân chói chang dường ấy, dù trái tim vẫn còn nguyên vẹn màu xanh rừng lá như ngày xưa, họ làm sao có thể dễ dàng nhận mình là chiến hữu, là… một thời lãng mạn và khổ đau được. Tôi đưa tay vuốt cao mái tóc lên, ít nhất cũng để lộ được ra vầng trán trắng xanh mà đã có lần cô ấy hôn rất lâu vào đó, nói rằng ngủ một chút đi, dịu lại một chút đi, ơi vầng trán ngang tàng và kiêu hãnh của em… Tôi lẩn mẩn vuốt kỹ từng sợi bạc trắng như vuốt đi những buồn đau bất hạn của nửa thế kỷ làm người. Dòng nước tinh nguyên cuốn những sợi trắng ấy trôi đi, nhập vào bãi phân chó nằm dập dềnh ở cuối rãnh. 
    Thưa bạn đọc! Chắc các bạn sẽ bực mình mà hỏi: Ơ hay, cái thằng cha dớ dẩn này! Mi còn định tìm đến đấy làm gì nữa khi đêm qua chính mi đã bị một cú bẽ mặt đáng lẽ phải tởn đến già rồi… Vâng! Điều đó sẽ hoàn toàn chính xác nếu như tôi còn biết bẽ mặt hay còn có mặt để mà bẽ. Tuy nhiên cũng xin thưa rằng tôi chưa đến nỗi vô sỉ như thế, vả lại ở trong những tình huống cá biệt như thế này, càng bị xua đuổi, người ta càng có cảm hứng nhào vào, nhào vào giống một con thiêu thân không hề biết mình là tội tình. Hơn nữa, tôi đã có cách riêng của tôi mà các bạn sẽ được thấy trong cuộc đối thoại rất ư dền dứ dưới đây với ông thường trực sở vào khoảng 9h sáng cùng ngày. 
    - Chào bác! Chào đồng chí! - Tôi bắn trước với một chất giọng hết sức chững chạc và tươi tỉnh còn sót lại của một thời đã từng nếm qua mùi vị quan chức. 
    - Dạ!… Chào… Chào đồng chí! 
    Đồng chí ư? Có vẻ tạm ổn đây. Tôi nghĩ thầm và giấu đôi bàn chân cóc cáy vào gầm bàn. 
    - Nếu có thể được, vâng, nếu có thể được, xin đồng chí cho hỏi ở sở mình có ai tên là Sương, Ba Sương không ạ? (Im lặng ngột ngạt… Đôi mắt đục lờ sau tròng kính quét qua quét lại trên khắp thân thể tôi như đèn pha đồn địch…) Dạ… Vâng… ấy, chả là tôi vừa từ ngoài kia vào, hồi đêm ngủ ở bến xe, vô ý nên bị móc hết đồ đạc. Dạ… Cả đôi dép chúng cũng không tha. Vâng… (Vuốt tóc, cố tình để lộ vầng trán ra). 
    - Ai? 
    - Tôi ấy ạ? 
    - Là tôi hỏi đồng chí vừa nói muốn gặp ai? 
    - Sương, Ba Sương, chánh phó giám đốc sở gì đó ạ? 
    - Đàn bà? 
    - Vâng! Đàn bà. 
    - Giám đốc ở đây đúng là đàn bà nhưng không phải tên đó. Chỉ có Tư Sương trưởng phòng kế hoạch thôi. 
    - Dạ… Có thể là Tư Sương, tôi nhầm. Và cũng có thể kiêm nhiệm một chức vụ gì đó cao hơn? Vâng! 
    - Ông này nghỉ hưu đã hai năm nay rồi. 
    - Ông… Sao lại là ông? 
    - Chả lẽ là ông mà buộc tôi phải là bà ư? 
    - Vâng… Em hỏi thế này khí không phải, bác đừng giận: 
    Đồng chí nữ giám đốc ở đây tên là Tư Lan đúng không ạ? Vâng! (Sao vâng lắm thế? Có khi bằng tổng số những tiếng vâng cả đời cộng lại?). Nghe nói hình như đồng chí ấy có một cái tên nào khác ngoài cái tên Tư Lan? 
    - Này - Ông già quắc thước tháo hẳn kính ra, nhìn thẳng xuống chân tôi mà không cần giữ ý gì cả - Thế đồng chí hỏi có việc gì? Đồng chí là thế nào với cái người có tên Sương ấy? 
    - Dạ… thân ạ… Rất thân, vừa là chiến… cùng hoạt động, vừa là… bà con. Vâng, bà con bên ngoại ạ! 
    - Không có! - Ông thả một câu như thả gạch rồi quay đi. 
    - Thế… 
    - Tôi chỉ có thể trả lời vậy. Muốn biết thêm, mời đồng chí quá bộ lên tầng năm hỏi phòng tổ chức. 
    - Vâng… Bác cho em hỏi nốt câu cuối: Đồng chí giám đốc chính quê ở đâu ta? 
    - Tầng năm. Tất cả ở tầng năm. Quê cũng ở tầng năm. Có gì nữa không? 
    Tôi cứng họng trước câu hỏi khinh khỉnh quá đỗi khó chịu của ông già, không biết nên bỏ đi hay nán lại nữa? 
    Tôi cứng họng trước câu hỏi khinh khỉnh quá đỗi khó chịu của ông già, không biết nên bỏ đi hay nán lại nữa? Vừa lúc đó có tiếng đế giày gõ nặng nề từ trên gác đi xuống. Tôi nhìn lên và không còn kịp tránh né: Thằng phản ngực đang hạ càng xuống tôi với bộ dạng của một chiếc trực thăng đầy đạn. Sáng nay trong bộ cánh nhã nhặn, trẻ trung, hắn trông không đến nỗi to tát bặm trợn lắm, thậm chí còn đẹp trai, hùng dũng nhưng đôi mắt lại lãnh lẽo, ghì gầm hơn. Còn cách tôi hai bước, hắn hất cằm, hàng ria mép tỉa gọn cũng bay theo: 
    - Lại là ông đấy à? Ông bạn thân mến? - Không cần biết phản ứng của tôi thế nào, hắn quay qua ông thường trực, sắc mặt không hề thay đổi - Với những loại khách như thế này, ông không nhất thiết phải mất thời gian trả lời. 
    - Ông ấy hỏi một người tên Sương! - Ông thường trực nói. 
    - Sương! - Lông mày hắn chau lại tạo thành một đường rãnh sâu hoắm ở giữa như lông mày sư tử rồi giãn ra rất nhanh, lặng phắc bí hiểm - Sương nào? Sao lại có sương khói ở đây? Muốn tống tiền kiểu ăn mày, chí ít ông bạn cũng phải biết thủ trưởng cơ quan này tên gì, bụng dạ ra sao chớ. Thế nào? Muốn xin bao nhiêu? Một nghìn hay hai nghìn? Này cầm lấy - Hắn đưa ra một nắm tiền lẻ - Phải tới chục nghìn đó. Nhét túi lẹ đi, nhớ là không được quay lại nữa. 
    - Không… Tôi không - Tôi bật lùi trở lại, thật sự lúng túng. 
    - Chê ít hả? - Hắn cười lên the thé (Quái lạ! Một thằng to con như thế mà lại có tiếng cười như dê?). Vậy thì cút xéo! Đến nơi khác, tỉnh uỷ hay uỷ ban hành chính gì đó mà tống tiền. Nơi đó họ giàu có và phóng khoáng hơn ở đây. Đi đi! Ông thường trực giúp tôi cho thằng ăn mày tập làm sang này ra khỏi đây càng nhanh càng tốt. Đây là cơ quan nhà nước chứ không phải bến tàu bãi chợ. 
    Bất chợt ông thường trực đứng thẳng dậy, đối diện với cái bộ ngực nở nang như ngực đàn bà của hắn. 
    - Và tôi cũng không phải là một thằng súc sinh, cứ thấy mùi đồng loại của mình là hậm hẹ phách lối. 
    - Bác… Bác nói cái gì? Hả? - Hắn trợn tròn mắt lên. 
    - Tôi nói cậu là cậu vừa phải thôi. Cậu đừng tính làm ông vương ông tướng trong cái cơ quan này. 
    - Được! - Hắn cười nhạt, con mắt sau cặp kính đổi màu chớp sáng - Rồi bác sẽ được trả giá cho câu nói này. 
    - Tôi sẽ trả ngay bây giờ đây. Cậu tưởng tôi, một thằng đại tá về hưu được nhận vào đây làm hợp đồng, mỗi tháng vài chục nghìn với đủ các thứ việc linh tinh, với hàng trăm tiếng hự hẹ của thiên hạ, của cậu, là hạnh phúc, sung sướng lắm sao? Cậu nhầm! Nói thiệt! Nếu tôi không nể cái tình của cô Tư đối với tôi, không ái ngại cho hoàn cảnh của cô, muốn góp sức phụ giúp cô phần nào thì tôi đi từ lâu rồi. 
    Gã phản ngực thoắt trở nên lúng túng: 
    - Là… là tôi nói thế, cũng vì công việc chung. 
    - Tôi đã vì công việc chung từ khi cậu còn chưa ra đời kia. Không phải chỉ vì cái chung mà coi rẻ con người. Ngày mai, cậu có thể thưa với bà giám đốc của cậu cho tôi được huỷ hợp đồng. Tôi muốn dặn lại cậu: Ở đời, ở cho nó phải điều, nếu không phụ giúp được một con người lành hiền như thế thì cũng đừng cản phá, đừng làm rầy bả. 
    - Kìa!… Tôi đã làm gì mà bác lại nói lộn xộn như vậy? 
    Thấy tình thế không mấy hay ho, tôi lập tức đánh bài chuồn. Phố xá nắng nóng kinh người, hơi cá từ bến sống thổi vào tanh lợm. Mẹ kiếp! Một buổi sáng tanh tưởi. Một cõi sống tanh tưởi!… Lạ lùng! Ngày xưa, suốt chục năm vục mặt vào hơi nước vùng sông Sài Gòn mà sao không một lần tôi cảm nhận thấy cái mùi vị này. Trời tanh, đất tanh, gió tanh, ngay cả cái nắng hanh vàng đẹp thế mà cũng tanh. Một vệt nắng như vậy từ đâu đó phía sau dọi vào gáy tôi nhôn nhốt. Cáu sườn, tôi ngoái đầu nhìn lại và chợt sững sờ khi thoáng thấy khuôn mặt của cô ta từ trên một khuôn cửa sổ tầng năm đang nhìn xuống. Giống như đêm qua, hai ánh mắt va nhau cái rầm nhưng nhẹ hơn, nhẹ hơn rất nhiều, nhẹ đến nỗi khuôn mặt kia bay mất như vừa rồi chỉ là ảo ảnh, là quáng nắng. Tôi rảo bước sang bên kia đường. Dù khuôn mặt kia có là thật đi nữa thì tôi cũng hoàn toàn không muốn mình hiện ra trước mặt cô ta với một bộ dạng thảm hại như thế này. 
    Mệt mỏi, hôi hám và đói khát, tôi rơi người xuống một vạt cỏ nhơ nhớp ở bìa một công viên tạm gọi là có chút bóng mát. Ngay bên cạnh tôi, một chiếc ca-pốt sun xoăn, lầy nhầy bắt nắng vàng ánh lên. Xa hơn chút nữa, là một bãi phân người, bãi phân rất to, khoanh tròn, chứng tỏ chủ nhân của nó là một gã có cái bụng tiêu hoá tốt. Ruồi nhặng bay è è, tiếng xe máy nổ vỡ choang choác ở đằng sau… Dựa lưng vào gốc cây, hai cẳng chân duỗi thẳng, tôi nhắm mắt lại… 
    Chắc bạn đọc sẽ hỏi ở tình trạng ấy, tôi lấy gì để sống qua ngày hôm nay, ngày mai, ngày mốt, những ngày sau đó? Cám ơn! Xin đừng lo cho tôi. Nếu gọi là còn lại một chút gì của người lính năm xưa thì đó là khả năng chịu cực ở tôi. Tôi có thể nhịn đói, nhịn khát, nhịn cả ngủ suốt cả ba ngày ba đêm liên tục mà đầu óc, chân tay vẫn hoạt động bình thường. Ngày xưa bị thương thối hai mông đít, lết trong rừng lồ ô cả mười ngày như chó dại vẫn sống được, huống chi là bây giờ. Vả lại, ở đây nắng gió chứa chan, cuộc sống sôi động, thực phẩm ứ đầy, có đâu cỗi cằn hoang phế như trong rừng mà ngại. Tôi có thể ra bến xin bốc vác thuê, đạp xế lô giờ, đạp xe đạp ôm, rửa bát, đánh giày, thậm chí… cả đánh nhau thuê nếu ai đó nhờ (?)… Vẫn được kia mà. 
    Một bàn tay đặt nhẹ lên vai tôi. 
    - Chú ngồi đây à? 
    Tôi giật mình nhìn lên: Ông già thường trực: 
    - Kìa… Bác cũng đi dạo sáng? - Tôi hỏi cho có hỏi. 
    - Tôi đi tìm chú. 
    - Bà ấy cho gọi tôi ư? - Tôi buột mồm hỏi? 
    - Không! Mà dẹp cái đó qua bên đi. Trước hết bây giờ tôi mời chú đi ăn cái gì đã. Tôi biết chú mệt và đói lắm rồi, hả? 
    Và trong bữa ăn đạm bạc ở một quán cơm bình dân ven sông, có cá trê kho tộ, rau sống, canh chua, cả một chút rượu đế, tôi đã kể lại cho người cựu chiến binh cao cấp na ná cùng một cảnh ngộ như tôi nghe về cái nguyên cớ đã đưa tôi đến đây. Ông ngồi nghe chăm chú, chỉ uống rượu lai rai chứ không đụng đũa, thỉnh thoảng lại lắc đầu ái ngại, có đoạn lại mỉm cười không tin. Nhưng bằng đôi mắt hiền từ, ông vẫn khích lệ tôi kể hết sự tình. Nghe xong, ông im lặng một lát rồi nói: 
    - Chuyện của chú nói ra, tôi nghe mà biết vậy thôi. Nhưng thấy hoàn cảnh chú hiện thời, lại hiểu chú ngày xưa cũng là dân đánh giặc trong này, tôi thiệt bụng mời chú về nhà tôi nghỉ tạm rồi muốn tìm gì thì tìm. Bà vợ tôi cũng người ngoải, ở Thanh Hoá. Gặp chú có khi lại vui. 
    Tôi cảm động cám ơn ông và xin được khước từ mặc dù trong lòng rất muốn. Đó là cách ứng xử được coi là cứng rắn đến khó chịu của tôi, rút ra từ sau hàng trăm ngàn lận đận và sau bao nhiêu ngày lang thang vô vọng nhọc nhằn. 
    Cuối cùng, bằng cái khoát tay khoáng đạt, hơi dữ dằn của một công dân sinh ra từ miệt vườn hoang vu, ông bắt tôi phải nhận tháng lương bảy mươi nghìn mới lĩnh của ông. 
    - Bậy nào, bác - Tôi giãy nảy - Bác cũng nghèo, tuổi này còn phải lóc cóc đi làm thêm, lấy tiền đâu giúp em? 
    - Thằng lính nào ra khỏi cuộc chiến chẳng nghèo. Nhưng tôi cũng đỡ. Nhà còn vườn tược, chuồng heo, hầm cá, bà ấy lại đảm, có thể sống tạm đủ. Đi làm cốt cho vui, cách thức tiếp xúc thêm với xã hội. 
    - Có khi vì em bữa nay mà… bác gặp rầy rà?… 
    - Bỏ đi! Rầy rà con mẹ gì. Tôi muốn thôi từ lâu rồi. Cái cơ quan nhìn bề ngoài có vẻ khang trang, người xe tấp nập nhưng bên trong ruỗng lắm. Cô Tư là người tốt, biết làm việc nhưng ở dưới chúng nó phá quá! Nhất là thằng Địch, thằng trưởng phòng cung ứng vật tư. 
    - Nhà riêng của… bà giám đốc ở đâu? Bác có thể… 
    - Không có nhà riêng, bả ở luôn trong cơ quan, thi thoảng mới thấy bả ra ngoài đường. Nghe nói tỉnh mấy lần định phân nhà, nhà cỡ xịnh đàng hoàng nhưng bả lờ đi. Hơi lạ! 
    - Thế còn vợ chồng con cái? 
    - Chồng con gì đâu? Bà độc thân. 
    Tôi chợt nhớ là lời chúc tụng khi đêm ở nhà hàng về hoàn cảnh của cô ta nhưng vẫn không thể không hỏi thêm. 
    - Độc thân luôn từ ngày giải phóng hay là đã có… 
    - Cái đó tôi không biết nhưng nghe người ta bảo bả có số sát chồng nên bả không muốn dính luỵ. 
    - Sát chồng? - Trời! Ngực tôi bị nén chặt - Bác có thể nói thêm cho em hiểu chút ít về con người này không? 
    - Tôi cũng mới về, chỉ nghe nói sơ sơ. Đại khái là thấy mọi người trong sở đều có vẻ kính trọng bả. Họ khen bả làm việc giỏi, năng động, chịu khó nghe ý kiến quần chúng, tính tình nhã nhặn, thương người... 
    - Không… Xin lỗi bác - Tôi sốt ruột cắt ngang - Tôi muốn hỏi… Hỏi những cái khác kìa. 
    - Cái khác là cái gì? Tiểu sử hả? Tôi đâu có biết, à, coi nào! Hình như thời đánh Mỹ bả đi tù, năm 73 trao trả, 75 về đây. Thoạt đầu chỉ là cô nhân viên trồng rừng không ai để ý, sau đó là đội trưởng rồi quản đốc, trưởng phòng, giám đốc lâm trường liên hiệp, phó sở và cuối cùng là giám đốc như hiện nay. Bả nổi tiếng là người có nghị lực mạnh mẽ trong học tập, làm việc. Lu bù công chuyện vậy làm vẫn giật được mảnh bằng đại học, năm tới sẽ bảo vệ luận án tiến sĩ, Anh văn, Nga văn đều đã đạt trình độ đọc thông viết thạo. Tuy vậy… 
    - Tuy vậy sao ạ? 
    - Từ từ! Tôi biết bên trong đầu chú đang nghĩ gì rồi. Phải bình tĩnh mà suy xét. Chắc không phải đâu. Song có điều này tôi cũng nói để chú hay. Bả có một nhược điểm là rất ít giao tiếp. Ngoài giờ làm việc, bả không đi đến đâu, không gặp gỡ trò chuyện với một ai cả. Nhiều lần giới báo chí, truyền thanh truyền hình muốn đến làm việc nhưng đều bị bả kiên quyết khước từ. Có đận, một tay ở toà báo trung ương làm cách nào đó chụp trộm được hình bả tính đưa lên báo. Biết được, ngay nửa đêm bà lặn lội đi tìm, thu lại bằng xong mới thôi. Ở đây, người ta gọi Tư Lan là Bà Giám Đốc Cấm Cung… 
    - Cấm cung ư? - Tôi lẩm bẩm như trước mặt mình không còn ai khác - Độc thân… Không cho trương ảnh… Khép kín… Hầu như không đi ra ngoài… Bác ơi! có khi nào bác thấy cô ta nhắc nhở một chút gì đó về sông Sài gòn, về những cánh rừng ven sông ấy không? Hoặc là… 
    - Thôi, đầu của chú lại làm sao rồi? Cầm lấy tiền đi!… Cầm lấy! Cứ coi như là lính tráng giúp đõ nhau một chút gặp lúc lỡ độ đàng. Ngày trước khi tập kết ra ngoải, bà con cô bác cho tiền, tôi cũng cầm hoài. Rồi. Còn ba cái áo quần, giày dép, sớm mai chú chờ tôi tại đây, tôi sẽ mang ra cho. Khỏi mua. 
    - Kìa bác! Nhưng tôi… 
    - Còn chuyện của chú, nếu phải khuyên, tôi chỉ khuyên chú nên trở về. Biết chú mang nặng kỷ niệm, tôi quý. Càng quý khi giờ đây người ta hầu hết đều bảo nhau quay lưng lại với quá khứ rồi. Nhưng đuổi theo nó lại là điều không nên. Sống từng này tuổi, tôi chưa hề nghe chuyện người chết sống lại bao giờ. Người đã chết, để cho họ được yên, đừng khuấy lục lên nữa. Tuy vậy, nể tình chú, nhân có mấy người quen đang làm việc trong tỉnh uỷ, tôi cũng thử dò hỏi tung tích cổ xem. 

ĂN MÀY DĨ VÃNG Phần 3 Chu Lai

ĂN MÀY DĨ VÃNG        Phần 3




 Thế đấy, sự xuất hiện đột ngột của cô gái mảnh dẻ không xấu không đẹp trong buổi chiều ảm đạm này chả lẽ lại là cái dấu hiệu khởi đầu của sự ràng níu số phận nghiệt ngã theo lời báo ứng của Viên? Vừa tò mò, vừa muốn thể nghiệm lại vừa không muốn như thế, không thích như thế, anh hạ giọng: 

    - Muộn rồi! Sương về đi! 
    - Mặt và người anh Hai đầy đất cát, anh cầm cái khăn của em nhảy xuống sông tắm một cái rồi hãy về. Em chờ. 
    Rắc rối! Hùng nghĩ thầm và cũng đành phải cầm lấy chiếc khăn rằn cô gái tháo ra từ cái cổ trắng xanh đưa cho. Một mùi vị con gái ngây ngây, thơm nồng từ chiếc khăn phả lên khiến anh thoắt trở nên lóng ngóng, không rõ mình phải xuống sông hay nên đứng lại nữa. Trước mắt anh, ánh mắt cô gái đang hun hút toả ra những làn ánh sáng dịu dàng và hết sức thơ trẻ. Hùng lảng mắt đi, không dám nhìn lâu vào đó. Phải chăng toàn bộ sức quyến rũ, như cánh đàn ông thường kháo của cô nằm ở ánh nhìn tĩnh lặng này, sự tĩnh lặng mênh mông rất cần thiết cho những tâm hồn dị tật, sưng tấy vì đâm chém có một phút nghỉ ngơi, buông thả khi soi vào. 
    - Đừng buồn nữa anh Hai!… Em biết anh Hai đang buồn lắm, khổ lắm! Đơn vị du kích của chúng em tính đến nay cũng bị xoá đi xoá lại tới mười lần, mỗi lần xoá là mỗi lần em chơi vơi không muốn sống nữa, nhưng rồi vẫn phải sống. Và anh cũng đừng thêm buồn vì những cán bộ địa phương tụi em như chú Ba Tiến. Chú ấy cũng cực lắm! Vợ và con đều bị giết cả ở trong ấp, trên người chú ấy lại chi chít những vết thương của sáu lần đột ấp bị phục nên chú… 
    Hùng bật ra một tiếng cười cay độc: 
    - Tôi hiểu! Chính vì thế mà bà chính uỷ xã đội bữa nay ra đây làm công tác tư tưởng với tôi? Cảm ơn. 
    - Không… - Giọng cô như sắp mếu - Em ra đây là vì anh Viên. Tụi em ở trong này, nếu có chết cũng đỡ tủi. Dầu sao cũng gần nhà gần cửa, dầu sao người thân cũng biết mà hương khói. Còn mấy anh… 
    Anh Hùng… Rồi đây số phận hai người sẽ ràng buộc với nhau… Hai người sẽ gặp vô số hoạn nạn to nhỏ nhưng vẫn không xa rời nhau… 
    Trong người anh chợt có một sự chuyển động khác lạ, mơ hồ, chợt có một sự rạn vỡ lâng lâng, khắc khoải từ tận tâm can. Anh muốn nói với cô một câu gì đó thật mềm, thật dịu nhưng không nói được, như có một thế lực siêu hình nào đó ngăn cản không cho anh mở miệng. Và anh bỗng nhận ra rằng chiều nay bên nấm mồ viễn xứ của đồng đội, nếu không có cô, không có cái nhìn tĩnh lặng hun hút kia, anh sẽ chỉm nghỉm vào sự cô đơn khốc liệt không biết đến bao giờ. 
    - Cha chả! Mùi quá ta! Y trong tích tuồng cải lương Chuyện tình trên biên ải. Thằng Bắc kỳ to con này chơi tay trên thiên hạ rồi. 
    Một tiếng nói rổn rảng vang lên từ cửa rừng đã tắt nắng, thoạt nghe như tiếng chó rừng động cỡn. Hùng quay lại. Tiểu đoàn trưởng Tám Tính có tên kép là Tính cọp đang lắc lư đi tới, đen cháy, miệng rộng quá tai, hàm răng trắng ởn nhe ra cười hết cỡ, tạc đạn US va nhau rung reng như một bày chim sẽ đậu kín vòng bụng. Bên cạnh anh ta là Ba Thành, thấp lùn, ậm ạch, cặp kính cận bắt nắng cháy lên, vốn nổi tiếng là một bác sĩ ở bẩn nhưng lại hết sức mát tay. 
    Cô gái khẽ nói: 
    - Em về trước đây. Bữa nào có dịp ghé cứ qua tụi em chơi. Mấy anh bến đó có ghé cả, chỉ trừ anh. Chỉ cách nhau có một con suối cạn mà… Nhen! 
    Cô quay vội đi, quên cả lấy lại chiếc khăn rằn, chút nữa thì va mặt phải bả vai nhẫy nhụa mồ hôi của anh tiểu đoàn trưởng vừa bước tới. Anh ta không những không tránh đi mà lại còn ngoái cổ đứng nhìn theo bằng con mắt dài dại của một bệnh thần kinh, hay gần như thế. Ánh mắt tuột xuống eo lưng cô gái, tuột xuống chút nữa… Và dừng ở đó, đốt cháy… Một tiếng thở dài nặng nhọc nghe tựa tiếng rên đau của con thú đang cồn cào khát vừa ngửi hít thấy mùi vị con mồi thì đã không còn thấy tăm dạng con mồi đâu nữa! 
    - Này! - Hùng đi đến trước mặt Tám Tính, miệng cười nhưng con mắt hơi lành lạnh - Cái câu Bắc kỳ vừa rồi mới nghe thấy được nhưng nghe lâu vô duyên lắm, nếu không muốn nói là bố bậy. Tuy thế vẫn có thể bỏ qua. Nhưng cái cách cậu nhìn đàn bà con gái như muốn rách quần lót người ta ra thế kia là không ổn đâu. 
    - Ù mẹ! Con nhỏ dòm ốm nhom mà đít… trứng không à. Mọi việc ngon lành cả hả? Sáng đêm chớ? - Tám Tính vẫn nói câng câng. 
    - Cái gì sáng đêm? - Mắt Hùng đã hơi bạc đi. 
    - Còn giả đò hoài cha nội! Số mầy hên quá xá đó. Khắp phân khu Đông này, hàng trăm thằng, có nhiều thằng con ngon hơn mày nhưng chỉ đành đứng từ xa dòm vào con nhỏ mà nhểu nước miếng thôi. 
    Ba Thành bước tới, đứng chỉ đến cằm Tám Tính nhưng giọng nói lại hết sức kẻ cả: 
    - Thôi đi thằng Tám! Mày đến đây thăm mộ bạn bè hay đến để thò cái đuôi ghen tị ra đó hả? Coi nào! - Anh ta nheo nheo mắt - Vóc dáng hai thằng tương đương nhau, bặm trợn và đểu đểu nhưng thằng Hùng nhỉnh hơn một chút về cách nói chuyện rì rầm với đàn bà. Con đàn bà nào mà không thích rì rầm. Cho nên mày thua rồi, bao giờ cũng thua thôi, Tám ạ! Nghỉ cho khoẻ. 
    Tám Tính giả bộ phớt lờ, không nghe thấy, vẫn chả chớt: 
    - Còn khít khao không hay đã rỗng lổng? Cả một đống những thứ của khỉ đàn ông trong đó hay như thiên hạ nói, con nhỏ khó tính, ba năm ở rừng vẫn còn trinh nguyên? Sao? Nói thiệt bạn bè nghe chơi. 
    - Tao chưa hiểu - Con mắt Hùng bạc thêm chút nữa. 
    - Ù mẹ! Cái thằng, sao cù lần quá trời! Tóm lại tao thấy nó đứng mùi mẫn với mày ở đây, trong khi tao biết xưa nay nó chưa hề đứng riêng với thằng nào bao giờ, nên tao muốn hỏi mày xài chưa? Xài rồi thì… chúc mừng chiến tích thôi. Thứ chiến tích có thật, còn đáng giá gấp hàng ngàn những chiến tích đâm chém khác mà cả tao lẫn mày đều có dư. 
    - Thôi đi Tám Tính - Giọng nói Hùng đanh lại - Thực ra, tao không cần biết hà cớ gì mà thiên hạ gọi mày là Tính cọp, nói mày một khi nổi máu lên là chỉ biết vồ chứ không biết tán. Cái đó là của mày, tao không can thiệp. Nhưng ở đây, lúc này, mày chỉ biết nói mà không biết nghĩ là không được. Xuống sông uống một bụng nước cho tỉnh lại đã. Nếu không tỉnh, tao sẽ có cách khác thiết thực hơn. Xuống! 
    Bùm!… cả thân hình nặng nề của Tám Tính bị hất nhào xuống nước, chìm nghỉm như một tảng đa màu gan gà. Hùng bất giác đặt tay vào báng cây súng cụt đề trần giắt ở cạnh sườn. Với một thằng đánh giặc trời gầm, dọc ngang chẳng biết nể sợ ai, nếu không có cái tật vồ gái bất tử thì không đùa được. Hắn có thể nổi khùng lên bắn bỏ mình như chơi. 
    Nhưng cái miệng rộng vừa nhô lên khỏi mặt sông kia lại cười. Vừa phun nước phì phì vừa cười: 
    - Má thằng Hùng! Bắc kỳ mà cũng nóng dữ vậy mày? Cha chả là lạnh! Có thuốc, đốt cho điếu hút bậy coi. Má mày! 
    Ba Thành nhét điều thuốc rê vào cặp môi tái nhợt của hắn: 
    - Hết cơn chưa con? 
    - Tạm hết. 
    - Biết sợ chưa con? 
    - Chưa! 
    - Thằng này khá! - Ba Thành cười vang - Rồi cũng có ngày sẽ có một con đàn bà nào đó vắt kiệt mày không còn lấy một giọt nữa cho mà coi - Anh quay qua Hùng, vẫn một giọng kẻ cả - Con nhỏ có giá lắm đó nghe hông. Giá trong giá ngoài đủ cả. Chú mày tốt phước nên mới lọt được vào đôi mắt rắn lục của nó. Chỉ cần dòm cái cách nó nhìn mày là tao hiểu. Tao đã mổ cho vài chục con đàn bà, cũng như thế, vài chục thằng đàn ông, bọn mày nhó nhoáy con ngươi là tao biết liền. Nhưng nó cao số, thằng nào bạp vào, chỉ vài trận là đi tiêu. Tao khuyên chú mày phải cứng cựa mới mong thoát nạn. Nó là đứa con gái sát chồng. Nghe rõ chưa? 
    - Chưa - Hùng trả lời - Mình đã có cái gì với cô ấy đâu mà sát với không sát… Ông dặn thừa. 
    - Mà có sát đi nữa thì đã sao nào, thưa ông bác sĩ đồ tể. Với một người như ả, chỉ cần ngủ một đêm, sáng mai có trúng mìn banh ruột gan cũng hả. Thôi, đi thôi. Ướt hết mẹ nó rồi - Tám Tính càu nhàu. 
    - Cũng may mới chỉ là ướt - Hùng nhịn cười. 
    - Cút má mày đi! 
    - Đúng là thằng Nam kỳ cục. 
    - Mẹ! Dòm cái miệng nó cười sướng chưa? Răng như răng trâu, dám nhai cả thịt lẫn xương con nhỏ ra lắm… Nè! Có thiếu gạo, cho người đến tao lấy ít lít xài đõ, đừng đột ấp tầm bậy với mấy cha cầu an đó mà có ngày oan gia. 
    - Cám ơn! Tạm thời thì chưa cần. 
    - Cho hỏi thăm con nhỏ của mày. Bữa nào rảnh, sang tao nhậu chơi. Nhưng nhớ là phải rủ con nhỏ đi cùng thì nó mới… Há!… 
    Anh chàng cười như mễn và lủi đi cũng lẹ như một chú mễn đực vào rừng. Còn lại mình Thành. Anh đến gần Hùng, nét mặt chợt trở nên đằm thắm: 
    - Bọn bay mới xuống nên phải hết sức chú ý chuyện đi lại, ăn ở. Đừng để lọt xương, lủng ruột, tao không có cứu đâu. Mày nữa, Hùng ạ! Phải mổ ruột hay tháo khớp một thằng ngon như mày, uổng lắm! Đi nhen! 
    Nhìn theo dáng đi ậm ạch của người bác sĩ có dáng đổ tể, tự dưng Hùng thấy lòng mình ấm lại. Phải chăng con người có cái hình dong cổ quái này mới thật là thủ lĩnh tối cao, là thần hộ mạng, là chỗ dựa tinh thần thật sự của những người lính ven đô không ngày nào không có người ngã xuống này. 
    

ĂN MÀY DĨ VÃNG - Phần 2

ĂN MÀY DĨ VÃNG   -    Chu Lai   -  Phần 2



   Nếu cách đây hai mươi năm, một ai đó đã có dịp được gặp anh thì thật khó hình dung ra con người anh bây giờ. Cao một mét bảy ba, nặng cũng suýt soát bảy mươi kg (nếu sốt rét, nhịn đói dài ngày hay bị thương thì cũng chỉ xê xích chút ít, vòng ngực vênh cong như rá úp, tóc dày cộm, mắt xếch, miệng rộng, cười tươi, răng to và chắc, bụng nổi đủ sáu múi, chân tay xoắn chằng như chão bện, da màu bánh mật, có lúc đỏ nâu…), Hùng đúng là mẫu người của chiến tranh sông lạch, thứ chiến tranh đòi hỏi sự tinh nhạy, khôn khéo và can tràng đến tột độ. Nói về anh, các cô du kích, các cô ở đội nữ pháo binh trong rừng thường hít hà: Chao ôi! Người thế kia mà chết thì uổng quá! Cô khác đắm chìm hơn: Giá như có một lần sau khi đi ấp sáng đêm về được vùi mặt vào cái tảng ngực kia mà ngủ… Ngủ luôn không trở dậy. Cũng có cô tỏ ra bặm trợn: Cách chức anh ta đi! Không thèm cho anh ta oánh giặc nữa. Cứ để cho ảnh sống ăn uống ngon lành, mỗi đêm đến với chị em mình một lần, đến từng đứa, hết lượt lại quay lại từ đầu… 
    Đồng đội tin cậy nơi anh như đoàn thuỷ thủ hết lòng tin cậy vào người thuyền trưởng tài ba giữa muôn trùng sóng cả. Cấp trên cần anh nhưng chẳng mấy thích anh. Đàn ông chỉ cần một loại người thích chứ không cần ai yêu cả, đó là đàn bà. Anh thường nói vui như thế. Chỉ nội một cái dáng nghiêng lệch to tát, cái miệng cười phớt đời là đủ để thiên hạ có cái gì vừa khó chịu vừa kiêng nể anh rồi. Kẻ thù gọi anh là tên sát nhân tài tử, là nghệ sĩ cầm súng ảo thuật. Bà con trong ấp chiến lược kêu anh bằng mày, bằng thằng với tất cả sự âu yếm, tin cậy. Ấy vậy mà Hùng lại thật hiền. Lắm bận hiền đến dại khờ. Nếu như trong trận mạc, người ta không thấy ở anh một động tác thừa thì trong cuộc sống, đồng đội cũng không hề thấy anh nói dư một câu bao giờ. Anh biết nói bằng mắt, biết nghe và cũng biết cười bằng mắt. Một đôi mắt nâu xám, hồn nhiên và hoang dại. Người lành tâm nhìn vào đó thấy tĩnh lặng. Kẻ ác lòng nhìn vào thấy nổi cả da gà. Trời cho anh cái phong độ thủ lĩnh. Nỗi hiểm nguy tạo cho anh cái uy trước bạn bè. 
    Cách đây hai mươi năm Hai Hùng là như vậy. 
    Trên những nẻo đường chiến tranh đầy rẫy những sự bất ngờ, trong những cánh rừng lẻ khuất không tên gọi, như một sự run rủi của số phận, bỗng một ngày con người được người ta mệnh danh là Người Rừng kia gặp được Sương. 
    Ấy là vào một đêm đột ấp chiến lược đầu tiên khi đơn vị anh vừa mới chân ướt chân ráo đến địa bàn mới để kiếm gạo kiếm mắm nuôi nhau. Đoàn đột ấp gồm nhiều thành phần: cán bộ huyện, xã, bộ đội địa phương, bộ đội bán chủ lực, dân quân du kích… Và lẽ đương nhiên tốp lính thiện chiến của Hùng phải giữ vai trò nòng cốt dẫn đầu. Đã gọi là lực lượng hỗn hợp thì phải có cả trai lẫn gái, có cả già lẫn trẻ, nhưng ác hiểm hơn, có cả người xấu lẫn người tốt, cả kẻ gan dạ lẫn đứa khôn ngoan nhát hèn. Tất cả tạo thành một đội quân đi cứu đói của những tháng ngày trước 68 Mậu Thân. 
    Hồi chiều, trước lúc chuẩn bị xuất phát ra khỏi cửa rừng, nhác thấy cậu liên lạc của mình bị bỏ cơm, tìm ra mép sông ngồi, mắt nhìn hút xuống dòng nước buồn rười rượi, Hùng đã có chiều chột dạ. Cậu ta có một thứ linh cảm hay trực giác trận chiến gì đó rất kỳ quái. Trận nào mà hắn ta tươi tỉnh thích nói thích cười thì trận đó dứt khoát sẽ xuôi chèo mát mái. Ngược lại, hôm nào hắn tỏ ra lì xì, hỏi không nói, gọi không thưa, động một tí cũng gắt gỏng là y như rằng hôm đó không gặp trục trặc này thì cũng đụng tình huống khác, có khi cha con ôm đầu máu trở về. Vậy mà chiều nay… 
    - Viên! Mày thấy phương án đột ấp có chỗ nào lỏng không? 
    - Không!… Tất cả đều chính xác, đều hoàn hảo cả anh Hùng ạ! 
    - Nói dối! Hoàn hảo mà mặt mũi lại thế kia à? Nói đi! Nói đi! Nói bậy cũng được. Nếu cần tao sẽ cho ngừng lại. Chiến tranh còn mịt mờ, anh em mình kéo nhau từ ngoài kia vào đây đến nay còn chòn chõn mấy thằng, không dễ gì mà để mất thêm nữa. 
    - Em biết… Nhưng em chỉ cảm thấy thôi. Chỉ thấy lờ mờ mà không nói ra được. Kệ, cứ đi đi! Chắc không sao đâu. Có khi trưa nay lội sình đi bắt cá mải quá, bị nhức đầu. Vả lại… đói rã họng cả ra rồi, thiên hạ lại đã tề tựu đầy đủ, ngừng lại bây giờ khó lắm. Nhất là đêm nay có cả chị Ba Sương dẫn một tổ du kích đi theo để kiếm thuốc. Thương binh mấy tuần nay không còn thuốc để tiêm nữa. 
    - Ba Sương nào? 
    - Ba Sương y tá của đội du kích. Chị ấy mát tay lắm và tỏ ra hết sức tin cậy ở anh em trinh sát chúng mình. Hồi trưa, chị có hỏi thăm về anh… 
    - Thăm hỏi cái quỷ gì lúc này! Đây là chuyện sống chết mất còn chứ không phải là trò đực cái trăng hoa. Mày vẫn có cái lối uỷ mị rừng già ấy là không trụ được ở vùng rừng lõm ác nghiệt này đâu. Đi! 
    - Anh Hùng… 
    - Gì nữa? 
    - Phía đầu ấp đoạn có mấy vạt cao su bà con mới trồng… 
    - Thì mới trồng. Làm sao? 
    - Em nghi có phục kích. 
    - Đất đai ruộng vườn trong tay chúng, chỗ nào mà chúng chả phục. 
    - Nhưng chỗ này… Anh để em đi đầu nhé! Em sẽ cố phát hiện ra. Bọn này ma quái, cũng biết bắt chước ta cởi trần thoa đất thoa cát cho chìm vào cây cỏ. 
    - Viên! Sao mắt mày trong veo đi thế kia? Đúng là có cái gì phải không? 
    - Không… Không có cái gì cả. Anh còn thuốc không? Cho em điếu. 
    - Hả?… Mày xưa nay có hút thuốc hồi nào đâu? 
    Hỏi vậy nhưng Hùng vẫn cuốn cho cậu ta một con sâu kèn to bằng ngón tay út. Viên nuốt một hơi thật dài rồi thở ra, cái nhìn thoảng nhẹ hẳn đi. 
    - Anh Hùng! Em nói cái này, anh nghe hay không thì tuỳ nhé! Rồi đây số phận anh và chị Sương sẽ ràng buộc với nhau nhiều lắm đấy. Hai người đều gặp vô số hoạn nạn nhưng vẫn không xa rời nhau, vẫn bù đắp được cho nhau. Chị ấy sẽ chết trước anh. Chết trong chiến tranh hay chết sau hoà bình, em chưa thật rõ. Mà còn lâu lắm mới hoà bình, chí ít cũng dăm bảy năm nữa… 
    - Thôi! - Hùng đột nhiên thấy một cơn gió lạnh buốt thổi dọc xương sống lên đến tận đỉnh đầu. Cậu nói cái gì thế? Căn cứ vào đâu mà cậu nói như thế? 
    - Em… Em không biết nhưng nhìn vào mắt hai người em thấy như thế. Như hai đốm sáng màu xanh lẻ loi, bay loằng ngoằng đi tìm nhau, một đốm nhỏ hơn, mờ hơn và bay yếu hơn. Cái đốm của chị ấy. 
    - Được rồi! Cái đó sau rồi tính. Tóm lại tao muốn biết chiều nay có nên đi không? 
    - Nên! Có đổ máu, có người chết nhưng công việc sẽ trót lọt. Anh cứ để em đi đầu, có thể em sẽ giải được đấy. Nhé! 
    - Ừ. Nhưng nhớ là đi chậm, thật chậm, quan sát thật kỹ, thấy cái gì khác là dừng lại ngay. 
    Câu căn dặn ấy thừa. 
    Trên đường trở về, vào lúc ít ngờ nhất khi trên lưng người nào cũng đầy những gạo, thịt hộp, bánh tráng, thuốc lá, thuốc rê, thuốc y tế, cả đường sữa, cà phê, bánh tiêu, bánh ít cô bác gói cho… điều linh cảm bí hiểm của Viên mới ứng nghiệm. Ngay sau tiếng nổ đầu tiên, đội hình đã thật sự rối loạn. Lực lượng hỗn hợp nhanh chóng bị xé nát, dồn cục, tan ra, dát mỏng, kinh hoàng mạnh ai nấy chạy. Hùng đứng sững giữa con đường bò trắng cát, con ngươi muốn nổ ra vì uất ức và bất lực. Đã bao nhiêu lần đụng độ, bao nhiêu lần bị đánh trộm rồi nhưng đã có lần nào tan tác thảm hại như thế này đâu. Nhục quá!… Chợt thấy một cái bóng chạy ngược trở lại, ngã ngay dưới chân, anh cúi xuống túm ngực, dựng thẳng dậy: 
    - Thằng khốn! Chạy đi đâu? Mày bỏ bạn bè, đồng đội đi đâu? 
    Cái bóng ấy nói hào hển, sặc sụa mùi thuốc thơm Ru-bi: 
    - Ấy cậu… Đồng chí! Tôi… Tôi đây mà. Tôi là Ba Tiến, phó bí thư quận uỷ đây mà. Bỏ… Bỏ tay ra đi, kẻo người ta thấy… Kìa! 
    Hùng thả tay. Cái bóng mặc quần xà lỏn đổ ụp xuống. Khắp nơi, đằng sau, đằng trước, đạn vãi nổ rôm rốp như đá đổ vào mái tôn. 
    - Chạy như chó mà còn xưng là bí thư. Nhục! 
    - Này đồng chí! - Cái bóng cố gượng đứng dậy, hai cẳng chân để trần va đập lục cục - Ăn nói cho có tổ chức. Ai là chó hả? Láo! Láo quá! Phải giáo dục thế nào chứ không thì… 
    - Cút! Cút về phía sau mà giáo dục. Cút! 
    Không chờ Hùng phải trợn mắt nói thêm, một tiếng nổ to hơn đã hất cái bóng ấy bay biến đi ra phía sau như một trò xiếc. Chẳng thèm nhìn theo, Hùng vội khom người lao nhanh về hướng có tiếng nổ đầu tiên lúc nãy. Trên đường chạy, anh thoáng nhìn thấy lính của mình đang kẻ nằm người ngồi trong tư thế sẵn sàng đánh trả. Phải thế chứ! Lính đặc nhiệm của miền tăng cường đâu có thể xoàng được. Nhưng bắn trả ai? Có thấy gì đâu mà bắn trả? Thật là một cuộc chiến tranh cài răng lược chó chết! Nó thì mặc sức cắn ngoạm mình, nhưng mình thì lại không biết nó ở đâu để quất trả. Anh cười chua chát trong bóng tối và tiện tay vỗ vào vai một chiến sĩ tròn trùng trục cầm cây phóng lựu M.79 núp gần đó: 
    - Bảo! Theo tao! 
    Hai người bươn được đến nơi thì đã quá muộn!… Viên bị mìn Clâymo hất văng vào bụi chuối cách đó ba mét, mình mẩy nát tươm và không còn thở nữa. Hùng đau đớn hộc lên một tiếng trong cổ, cúi xuống bế thốc Viên lên vai bước trở lại. Được nửa đường, một cái bóng con gái nhỏ nhắn như một cô bé con hớt hải chạy tới, vai khoác túi cứu thương, vai kia đeo khẩu tiểu liên cực nhanh A.R15, ngực áo rách bươm để hở ra một khoảng da thịt trắng nhấp nhoá. Giọng con gái non nớt, hơi trầm âm tiết cuối kéo dài, nhọn sắc: 
    - Có làm sao không anh? 
    Thoáng thấy bộ cánh bà ba biểu tượng của dân địa phương, Hùng đã cau mặt: 
    - Chết chứ còn làm sao nữa! 
    - Có ai bị thương không? 
    - Khép cái ngực áo lại! 
    - Ôi!… Sao lại thế? 
    Cái bóng con gái đứng sững như bị trúng đạn, hai tay vội vã đưa lên che ngực… 
    Buổi đột ấp tạm coi như thắng lợi, chỉ phải đổi mất một mạng người. Thôi, thế cũng coi như là lãi. 
    Ít nhất cũng chống đói được vài tuần bám trụ. 
    Sáng hôm sau, bí thư huyện uỷ chèo ghe xuống tận nơi gặp Hùng. 
    - Nè! Ông nóng quá! Đồng chí Ba Tiến là cán bộ hai thời kỳ, giàu kinh nghiệm, át chủ bài về khả năng chống phá địch bên trong của toàn vùng. Tất nhiên… Tất nhiên, hả? Mất người ai chả xót, người của Đảng cả, nhưng người lính cách mạng ăn nhau ở sự điềm tĩnh, ở ý thức Đảng, ý thức tổ chức kỷ luật không lay chuyển trong mọi hoàn cảnh… Hả? Nói vậy để ta rút kinh nghiệm lần sau. Với Ba Tiến, đồng chí có thể gửi lời, có thể gặp trực tiếp nói một câu… câu xin lỗi, thế là xong. 
    - Lần sau nếu bộ đội của tôi ngã xuống, ông ta hay bất cứ ai khác như ông ta bỏ chạy nữa thì tôi sẽ bắn bỏ, kể cả lính của tôi. 
    Nấm mồ của Viên được đắp vội bên sông. Cảnh chiều. Mặt nước màu chì. Rừng cây hiu hắt. Đám cỏ lậu bên kia sông hắt lên bầu trời xám đục một tiếng kêu bìm bịp đơn côi, não nề. Hùng ngồi phệt xuống cỏ, bàn tay đầy bùn quấn một điếu thuốc rê nhem nhuốc gắn vào miệng Bảo: 
    - Chùi mắt đi! Thêm thằng Viên nữa là chẵn mười. Xuống mười sáu, nay còn sáu, mất mát hơi nhiều nhưng vẫn còn hơn là hết sạch. Từ nay, mày thay nó giữ cây hoả lực B41. Thôi, về trước đi! Tao muốn ngồi lại với nó một lát. Chả gì hai thằng cũng cùng quê, lại cùng dắt nhau vào đây. Về đi, nhớ nói thằng Tuấn bảo quản súng ống cho cẩn thận. Tính nó vốn ẩu. 
    Bảo đi rồi, còn lại một mình, Hùng hạ lưng xuống cỏ, mắt trống rỗng nhìn lên vòm trời cũng một màu trống rỗng. Mười chín bồng gạo đổi lấy một mạng người mười chín tuổi! Đau quá! Vô nghĩa quá! Nhưng dẫu sao cũng còn đổi lại được. Trong những cánh rừng và trên những dòng sông này, còn biết bao những cái chết ngớ ngẩn, hoàn toàn vô nghĩa khác mà phải đành chịu. Chiến tranh… Nó là cái gì nếu không phải là ngày nào cũng nhìn thấy người chết, ngày nào cũng chôn người chết mà vẫn chưa đến lượt mình. Mười chín tuổi. Trai tơ… Nếu biết chắc sẽ xảy ra như thế thì không khi nào mình chấp nhận chuyến đột ấp ghê tởm này. Chao! Chả lẽ trong trận mạc, con người ta có thể đoán trước được điều gì sẽ xảy ra ư? Như nó, Viên ơi… 
    Mải thả mình vào dòng suy tưởng hiếm hoi lâu lâu mới có được, anh không biết rằng từ bìa rừng, cô gái mảnh khảnh, nhỏ nhắn như một đứa bé con đêm hôm qua đang rụt rè đi tới, trên tay cầm một bó hoa dại. Đứng lặng giây lát nhìn Hùng, cô bối rối lên tiếng: 
    - Anh… Cho em cắm lên mộ anh ấy… nắm hoa. 
    Hùng giật mình nhìn lên… nằm thêm chút nữa rồi miễn cưỡng ngồi dậy, trong lòng thật sự bực mình khi có người lạ đến phá đám, nhất là người đó đã phát hiện ra cặp mắt đỏ hoe nỗi sầu đau của mình. 
    - Cô đấy à? Xin mời! Hoa gì thế? Sao lại phải hoa?… Thôi được, cô cứ tự nhiên nhưng cấm không được khóc. Ở đây quá dư thừa nước mắt rồi. 
    Cô gái không nói gì, lặng lẽ cắm xong mấy nhánh hoa rồi mới từ từ quay lại, nét mặt non nớt chuyển đổi bất ngờ: 
    - Ngay cả lúc này, bên nấm mồ đồng đội của anh, anh cũng không biết cách nói chuyện với phụ nữ ư? Sao thế? Có ai ăn thịt mất anh đâu. 
    Hùng khẽ bật cười và im lặng. Trần, vận quần cụt, súng đạn đầy người, râu ria lâu ngày không cạo, mọc xanh rì khắp mặt, quai hàm bạnh ra, cơ bắp được ráng chiều trát vào bóng sáng lên như tượng đồng, trông anh phảng phất cái bộ dạng của một gã cướp biển hay cướp rừng đang lẩn tránh pháp luật nào đó. Vẫn im lặng, Hùng mở to đôi mắt màu nước ròng vô cảm rọi thẳng vào cô. 
    Giống con mễn nhỏ ăn đèn, toàn thân cứng đơ co rúm lại, cô gái hốt hoảng: 
    - Ơ kìa!… Anh làm sao thế? Anh nhìn gì thế? 
    Bức tượng thoắt chuyển động. Và cười. Cái cười vô thanh, toàn râu. 
    - Nhìn xem ở cô có cái gì mà bọn đàn ông nơi đây đua nhau phát rồ phát dại lên như thế? 
    Mắt cô gái đựng ráng chiều, chớp sáng: 
    - Anh Hùng cười nữa đi!… Anh cười dòm ngồ ngộ như đứa trẻ nít lên ba ý. 
    - Còn khi không cười? Dám thành ông già chắc? 
    - Không!… Thành ông thần sông. Sợ lắm! 
    Hùng bật cười vang. Cười rất lâu… Toàn thân anh rung động, các cơ bắp trên cổ thắt lại. Tiếng cười nghẹn dần, chìm xuống, ngắt quãng như không còn là cười nữa. Nhìn lên, cô gái sững sờ thấy trong tròng mắt anh đang có những giọt nước đùng đục chảy ra. 
    - Anh Hai… Thôi, đủ rồi, đừng cười nữa! Cho em xin. Em xin lỗi… 
    - Trước khi chết, Viên nó có nhắc đến Sương. Nó nói… 
    - Nói gì anh? 
    - Nó tiên đoán… à, không, không có gì. Đánh đấm liên miên, đầu óc căng thẳng quá, người ta hay sinh tật ký thác niềm tin, phận số vào thần linh để phần nào vơi nhẹ đầu óc. Vậy thôi. Hỏi nhé: Tại sao em biết tôi? 
    - Trời đất! - Sương cười khẽ, hàm răng rất đẹp - Hùng đặc nhiệm, Hùng người rừng, Hùng ác ôn Việt cộng… Cả phân khu miền Đông này ai mà không biết hả anh Hai. Nhưng hoá ra nói trật. 
    - Trật sao? 
    - Hùng con nít, Hùng yếu mềm thì mới đúng. 
    Anh không nói nữa, quay mặt nhìn ra sông.

ĂN MÀY DĨ VÃNG Chu Lai Phần 1


Ăn mày dĩ vãng' của Chu Lai là một tiểu thuyết chiến tranh nhưng kỳ thực nó phô bày hết mọi mặt của cuộc sống. Từ cuộc chiến tranh đẫm máu giữa hai phe: ta và kẻ thù đến tâm sinh lý con người, đến tình yêu lãng mạn trong thời kỳ dã man và khốc liệt, rồi cả những mặt trái trong thời chiến lẫn thời bình đều được lôi ra tuồn tuột trưng bày cho độc giả nhấm nháp và chiêm nghiệm suy tư.

Những con người hy sinh nhiều nhất là những con người sau hòa bình lập lại sẽ ẩn sâu vào cuộc sống bình dị đời thường hay ẩn náu nơi chốn nào đó thư thái tâm hồn mà nhớ chuyện ngày xưa, họ sống như một công dân bình thường... Họ không huênh hoang chiến công này, chiến tích nọ, họ luôn im lặng để mặc cho năm tháng chiến tranh, năm tháng mà họ phải chiến đấu gian khổ cực nhọc bào mòn đi tuổi trẻ và hạnh phúc của họ, để lại trên thân thể họ những vết thương đau âm ỉ. Mặc kệ luôn cả những thói đời đang từng ngày làm tổn thương họ thêm lần thứ hai, lần này là về mặt tinh thần, những sự thật méo mó, giả dối tràn ngập giữa dòng đời đang chảy dữ dội, sức người khó lội ngược, vượt qua, nếu cứ lội ngược thì không bèo nhèo thì cũng dễ chết lắm. Mà họ thì không lội ngược không được, thấy nghịch lòng trái lương tâm lắm!


Phần 1
  n người đàn bà ấy là Sương, Ba Sương, đã chết rồi, chết rõ mười mươi ngay trước mắt tôi, chính tay tôi đã đào mồ chôn cất để rồi từ đó, đằng đẵng suốt mười mấy năm sau, cứ mỗi lần bất chợt nhớ đến, hình ảnh Sương lại xoáy buốt vào tôi những nuối tiếc khắc khoải và cả những day dứt ngọt ngào. 
    Vậy mà Sương lại không chết, không hề chết! 
    Trời ơi!… Nếu tôi không có chuyến đi vào Nam như cánh chim trốn rét muộn màng ấy, nếu như tôi không vô tình gặp lại, nếu như con người ấy đừng sống lại thì có lẽ cuộc đời tôi… 
    Đó là vào một đêm hè oi ả, dự báo những trận mưa triền miên buồn dứt sắp đổ xuống vùng rừng mới được phục sinh bên dòng sông Hậu. 
    Tôi vừa mới chân ướt chân ráo ở ngoài kia vào để thực hiện một hành vi ngang trái và tội tình: đi tìm việc làm, đi tìm nơi trú ngụ chót cùng của cuộc đời. Vâng! Đã ngót ngét bước sang cái tuổi năm mươi rồi mà còn lận đận bỏ xứ xa quê để tìm công ăn việc làm thì thật là tội tình! Nhưng hỡi ôi, biết làm sao được! Cuộc đời vốn dĩ nó vẫn cứ hững hờ trôi chảy như thế cũng như tự trong cái thâm tâm đã quá chán chường mệt mỏi của tôi, tôi đâu có tính ngồi viết lại những dòng này, một việc làm mà chỉ cần nhắc tới thôi là cũng đủ thấy rùng mình, quá đỗi dớ dẩn rồi. Viết Lại! Động từ ấy mới sáo rỗng làm sao! Viết Lại có nghĩa là Sống Lại, sống lại cái cuộc sống nửa sống nửa chết ấy thì coi như chết hai lần! Viết Lại! Chao ôi, cái hành vi ấy mới bốc mùi ngầy ngụa làm sao! Vậy mà tôi vẫn phải kể lại, phải viết lại như một thứ ma đưa lối, quỷ đưa đường, có cố tình lãng quên đi cũng chẳng được. 
    Tôi bốn chín tuổi và đang thất nghiệp, đúng hơn là vừa mới thất nghiệp. Tôi, một kẻ dư thừa vừa bị bắn ra khỏi lề đường. Cao một thước bảy mươi nhưng chỉ nặng có bốn mươi nhăm cân, hốc hác, bắt đầu có dấu hiệu thần kinh, tóc bạc nham nhở, ngực lép, bụng lép, mắt cá chày, da xám ngoét, môi thâm, răng rụng gần một phần ba, ít cười, ít nói, sợ ánh sáng, sợ tiếng động, sợ đô thị, sợ nơi đông người, dấu vết mặc cảm tự ti in hằn vào từng bước chân đi, từ trong cái nhếch mép rụt rè, nửa cười nửa khổ… Tóm lại, tôi là một con nộm rơm khốn khổ giữa cánh đồng đời đầy giông bão. Ấy vậy mà cái đống da thịt xương xẩu lằng nhằng là tôi đó lại đã có một thời ngang dọc, tráng kiện chẳng kém chi ai. Cái thời gắn liền với những cánh rừng bom đạn bên dòng sông Sài Gòn, cái thời mà giá như trái mìn Clâymơ màu xanh là cây cong vênh ấy đừng có nhằm giữa đỉnh đầu tôi lạnh lẽo giáng xuống thì có lẽ cho đến hôm nay, thể xác tôi, tâm hồn tôi chưa tới nỗi tồi tệ dường này. Tôi đã thành một lão già, lão già ốm o và sầu muộn. Mà, ô hay! Tôi đang lảm nhảm cái gì đây chứ? Tôi đang muốn kể về người đàn bà chết mười mươi mà đột nhiên sống lại kia mà. Chà!… Thì ra một khi đã già, đã đánh tuột hết lượng sinh khí ra phía sau đuôi, người ta đâm dở chứng ưa than thân trách phận. 
    Vâng, thưa bạn đọc! Thì tôi vẫn đang nói về người đàn bà đó đấy chứ. Ấy là vào một đêm hè oi ả… Chao! Lại lẩm cẩm rồi. Tội vạ gì mà thiên hạ động nhắc tới kỷ niệm lại nhất thiết cứ phải là đêm nhỉ? Có thể ngày, có thể sáng, có thể trưa thì đã chết chóc gì nào? Rõ thật… Dễ thường cứ phải là Đêm thì vùng ký ức mới có mùi vị thẳm sâu chắc? Lẩm cẩm! Chậc!… Mà thực ra không lẩm cẩm thì làm sao tôi có thể lạc được vào cái nhà hàng choáng ngợp cỡ đệ nhất, đệ nhị miền Tây đó. Còn tướt! Bạn bè một thuở kiêu dũng của tôi bây giờ gặp lại, cũng như tôi, sao mà ngán ngẩm quá thể! Hầu hết đã lui về vườn ăn theo vợ, núp váy vợ. Nếu còn có một người đàn bà chịu làm vợ. Đứa thì nhậu xỉn, tối ngày nằm trên võng nắng, đứa thì lụi hụi trổng tỉa ngoài bưng, mở mồm là càu cạu, thằng này đang thở dài phì phịt giữa một bên là bầy con nhem nhuốc, bên kia là thạp gạo chỉ còn cám mùn đọng quẩn ở dưới đáy, thằng kia sống trụi thùi lụi một mình, hỏi nhà cửa vợ con đâu, chỉ giơ cái chai đế lên cười xệch xẹo… Mỗi thằng một vẻ, trăm thằng trăm lối, không thăm thì nhớ, thăm rồi, trở ra, lại thấy buồn dứt ruột trong nỗi thương bạn. Đội hình đánh giặc ngang tàng năm xưa giờ đây, trừ vài thằng may mắn khôn ngoan, chẳng rõ nguyên cớ nào lại đều bị cuộc đời dồn chung vào một cục hẩm hui, méo mó. Chẳng may nhận ra nhau chỉ nhúc nhích chút xíu con ngươi đờ đẫn màu chì. Dĩ vãng… Kỷ niệm… Nhớ thương… Hết thảy đều chìm trong bụi thời gian mốc thếch. Càng buồn! Biết vậy chả nên gặp lại, chả nên tìm đến làm gì, chỉ tổ bẽ bàng, tan nát lòng dạ hơn. Cánh rừng năm nào đã không còn bóng dáng một loài cây cũ, mảnh đất năm nao đã phai lợt sắc màu, một lớp người xa lạ ở đâu đến hay vừa mới nhớn nhao lên đã nghiễm nhiên thay thế họ rồi. 
    Trong số đó có một cậu giao liên bây giờ là phó chủ tịch huyện phụ trách tài mậu tên là Quân đã bất chợt nhận ra tôi. Còn tôi thì chịu. Mười sáu năm trời dằng dặc đã trôi qua, khi đó nó mới chừng mười ba, mười bốn tuổi, nay đã ngoài ba mươi rồi; khi đó nó bé lóc cóc như cái tẩy, nay đã thành ông phó chủ tịch đạo mạo phương phi, ngực nở bụng nở, mông nở và ngay cả cái miệng cười cũng hết sức nở nang thì thử hỏi làm sao tôi có thể nhận ra được? 
    Tuổi già dừng lại, tuổi trẻ vun vút đi lên, âu đó cũng là chuyện thường. Nó hỏi tôi vào đây hồi nào? Vào làm gì? Sao già thế? Dòm như ông cố nội của cái ông Hai Hùng đội trưởng ngày xưa. Biết tôi lơ vơ láo váo, nó bảo lên xe. Cho anh nếm mùi chiều chuộng của con gái miền Tây. Mấy ông Bắc Kỳ sống dại bỏ xừ, chỉ biết đạo mà không biết đời. Ừ thì đi! Thời buổi lòng người nhạt tựa nước lã ao bèo này, người quen cũ chịu nhận ra nhau đã quý, lại còn rủ đi nhậu, đi rong ruổi phương xa thì càng quý. Cậu độ này khá nhỉ? Đã ra vẻ một tay áp phe cỡ Đông Dương gớm! Dương gì đâu anh. Mệt thấy mẹ! Không mấy ngày là không lang thang như chó đạp lửa thế này dể móc hàng, kiếm hàng, để dò tìm, để tiêu thụ, đã quá đã… Chuyện trò lung tung, gà gà gật gật, định hỏi thằng này thế nào, thằng kia ra sao, cô kia ra sao nữa nhưng tiếng cassetse cứ đập thùng thùng vào mang tai, khiến chả nói được gì, cũng chả nghe được bao nhiêu. Chán. Và mệt. Và không muốn biết thêm gì nữa. 
    Sẩm tối thì xe đến nơi, nhọc nhằn để lại đằng sau hơn hai trăm cây số, hai con phà và hàng nghìn những cảnh đời trái ngang. Xà quầy xà quạng một lúc, xe dừng lại trước cửa một nhà hàng nằm sâu trong vườn dừa nước có vô số kinh rạch cắt tới cắt lui. Kỳ lạ! Ngay từ giây phút đầu tiên bước xuống xe, toàn mình ngợp choáng trong hàng trăm ngọn đèn các cỡ, trong muôn vàn âm thanh các loại, vừa gợi chất bồng lai vừa bảng lảng mùi địa ngục, tôi đã thấy trong người chộn rộn một cái gì đó khác thường lắm! Rất khác thường mà không thể đoán hiểu được đó là cái gì hết. Không ngờ… 
    Vâng! Chính tại cái nhà hàng sang trọng, nồng nã cái hương vị sông nước rất riêng của miền Tây này, tôi đã gặp lại cô ấy. 
    Khoan! Trước lúc gặp cô ấy, tôi đã gặp một cô gái khác trẻ hơn, trẻ chỉ bằng phân nửa tuổi tôi và lại đẹp nữa, rất đẹp. Trông nhang nhác một tài tử Hong Kong chuyên đóng những vai diễm lệ, trong trắng và u sầu trong những bộ phim thấm đẫm hồn Quỳnh Dao. Cô bé là gái bán bar trong biên chế nhà nước cho dễ gọi. Tức là cái thằng tôi đang ngồi lọt thỏm giữa một quán bia ôm bề thế trong bộ dạng nhàu nát, lôm nhôm và mùi mồ hôi trộn mùi bụi đường chua nặc, chua đến nỗi chính tôi cũng ngửi thấy. 
    Khốn khổ! Từ ngày bước chân ra khỏi rừng không còn làm thằng lính tới giờ, tôi đã một lần được biết bia ôm là thế nào đâu. Cho nên mặt mày cứ duỗi dệt ra vì cảm động, vì ngơ ngác. Không cảm động, ngơ ngác sao được khi cô bé trắng nõn như một que kem và thơm cũng như một que kem sữa ấy e ấp, tỉ mẩn chăm chút cho tôi từng li từng tí. Bằng những động tác duyên dáng, uyển chuyển như sương khói, cô mở bia, rót bia, gắp mồi, bỏ đá, hỏi nhỏ, cười nhẹ, đặt vào tay, đưa lên miệng, nghiêng khẽ, châm thuốc, trao đũa, đổi thìa, ứ hự… Dòng nước men êm dịu chảy róc rách, chảy xối xả vào ngực, cuốn theo cả ánh mắt nai tơ có viền xanh màu lá mạ không rõ vì sao cứ rượi buồn. Tôi uống. Không phải là uống. Lâu quá mới được uống. Thần kinh phồng lên, mạch máu dốc ngược, các lỗ chân lông giãn nở… Những chiếc khăn rắc đá ướp lạnh rồi lại những chiếc khăn ướp nóng ngào ngạt như cả một vườn hoa úp lên mặt, lên mũi, lên trán, phủ vào cả cổ, cả ngực. Thơm và chua, chua và thơm nhào trộn đến chóng mặt, đến chung chiêng. Tôi cười nhạt. Nửa nhạt nửa mặn. Cười hị hị. Lại uống… Cô bé cũng uống. Uống không kém gì tôi. Uống hơn tôi. Uống giống tôi. Như uống nỗi niềm. Lon Heniken mở rôm rốp như đại liên, 555 xé roàn roạt như xé vải. Điếu này chưa hết đã quăng đi đốt điếu khác, các cục lửa thi nhau cháy đỏ trên những cái miệng cười, mếu, hát, nhầy mỡ và sủi bọt. Dường như tất cả sắp rơi vào cơn động kinh tàn độc và ngọt ngào. 
    - Anh Hai… Sao anh buồn thế? 
    Tôi không trả lời, không thể trả lời, chỉ khẽ rùng mình cho vị mặn từ câu hỏi im lìm đó chảy từ từ xuống đáy ruột. Giời ạ! Trong cả cuộc đời nhọc mệt, tôi nào đã có bao giờ được nghe một giọng hỏi dịu mềm đến thế, nhõng nhẽo đến thế, giọng hỏi đàn bà vừa là của mẹ, vừa là vợ, vừa là con. Gần năm mươi tuổi, hai lần phải lòng, một lần lấy vợ. Ăn ở với nhau chưa tròn hai cái tết thì băng giá, sấm chớp chui vào nhà. Tôi chán anh lắm! Tôi không chịu nổi anh nữa. Anh là một thằng đàn ông vất đi từ trong ra ngoài. Ngủ với anh cứ như người bị tra tấn ấy. Thà ngứa ngáy đi ngủ với thằng xích lô còn hơn… Mất vợ, tôi chả buồn chả đau, một con đàn bà nói năng như thế có còn ra vợ nữa đâu mà đau, chỉ bực mình tí chút trước những câu hỏi ác ý lẫn cả thiện ý của người đời. Cũng nhục thật! Chỉ có độc một việc là làm sao cho cái đó cong lên, hứng khoái mà cũng không xong thì tôi đáng vất đi thật. Đành vậy. Bao nhiêu xung lực, nội lực đã dồn hết trong chiến trận rồi, còn sức đâu nữa mà uốn cong người ả lên được. 
    - Uống đi anh! Nói một câu gì đó đi anh! Nói thiệt, anh Hai là người khách đầu tiên mà em biết khi tới đây lại mang cái vẻ mặt buồn buồn thế này. Tại em, em vô duyên, em kém cỏi, không làm anh Hai vui lên được sao? 
    Chao ôi! Giá như con vợ nặng hơn 60 kg của tôi cũng có một lần thử thỏ thẻ vào lỗ tai tôi một phần ngàn cái chất giọng hờn trách, yêu thương nghe đến rủn cả chân răng như thế thì có lẽ thân phận tôi sẽ khác đi đôi chút. 
    - Em tháo bớt khuy áo cho anh nghen! Vô nhà hàng bận quân phục trông kỳ nhưng mà… đẹp. Anh Ba Quân chủ tịch nói anh Hai ngày trước là sếp bự của ảnh, ảnh dặn tụi em phải đối xử với anh Hai thiệt đàng hoàng. 
    Anh… Em… Sếp bự… Đàng hoàng… Trời ơi, cái lão già hôi hám cóc cáy có mỗi bộ đồ lính kỷ niệm lấy từ hốc tủ ra mặc mà cũng còn được âu yếm gọi là Anh từ miệng một đứa con gái đẹp như sao sa. Tôi uống. Lại ngửa cổ uống. Mặc dù không thích uống, không thấy ngon, chỉ thấy những búng nước xà bông nhằng nhặng tràn vào cổ.
    Ngồi trước tôi, hoàn toàn tương phản với tôi là khuôn mặt loà nhoà lúc trương phình ra, lúc teo quắt lại như rọi chiếu trong gương dị dạng của tay phó chủ tịch trẻ trai đỏ đắn. Hắn nháy mắt sang tôi. Cái nháy trăm ý. Vừa dễ thương vừa đểu đểu. Tôi chỉ hiểu được một ý: Đối với cái nhà hàng thuộc thứ xịn bậc nhất ở vùng ngã ba sông Hậu này, thưa anh Hai Bắc Kỳ, thằng em bao giờ cũng là thượng khách, là khách sộp, khách quen, là người nhà. Tôi gục gặc đầu. Đúng thôi. Chỉ cần nhìn cái dáng ậm ạch của bà cửa hàng trưởng te tái chạy ra: Ôi chú Ba… và cái cách mấy cô nhân viên nuột nà óng ả nhất bảo nhau dồn cả vào đây ngồi bâu quanh hắn, mớm nếm cho hắn, hờn giận trách móc hắn, cả cấu véo lẫn cắn vào cổ, vào vai, vào đôi môi láng nhẫy của hắn… Cũng đủ hiểu. Hắn là ông Hoàng. Và tôi lại là sếp bự của ông Hoàng. Oai đấy chứ? Khốn nạn… 
    - Anh cười gì thế? - Cô bé ngước cặp mắt mê hồn lên tôi, hỏi với vẻ lo lắng thật sự - Sao anh không nói chuyện gì với em? Anh mà cứ đăm chiêu hoài vậy, bà chủ bả… 
    - Bả làm sao? - Tôi buộc lòng phải mở miệng. Việc khách vào đây, nói ít hay nói nhiều, buồn hay vui, có liên quan gì đến bả? 
    - Bả… Bả sẽ nói em không biết chiều khách. Bả sẽ đuổi việc… 
    Vừa nói tới đó, cô bé dừng tắc lại, hai bàn tay lóng ngóng cầm lấy cái này rồi lại cầm lấy cái kia. Tôi nhìn ra: Ánh mắt nghiệt ngã của cửa hàng trưởng đang nhìn xoáy vào cô ta từ ngoài cửa. À, ra thế. Tôi bật cười khấc lên một tiếng và một lần nữa lại tránh nhìn vào cặp đùi trắng đến loá mắt đang tuồn ra khỏi viền chiếc váy mini dưới gậm bàn, ngay bên cạnh đôi ống quần lem nhem bọc cặp giò teo cơ của tôi. Tôi lại cười khấc lên tiếng nữa. Chắc tiếng cười rõ chán nên con bé xị má xuống nhưng đôi môi nhỏ xíu màu hoa bằng lăng lại uốn lên hờn tủi. Ánh mắt của bà trưởng cửa hàng, cặp môi của con bé đã mách bảo cho cái khối não quá ư cục mịch của tôi hay rằng: vị trí công việc nơi đây rất thơm, song cũng rất chi là tạm bợ. Muốn được biên chế dài dài, phải đốt làm sao cho khách nóng lên, vui, hứng, đến lần này rồi đến lần nữa, lần nữa, quên mình, quên luôn cả số lon bia bị quẳng xuống gầm bàn, số vỏ 555 được vất vào sọt rác, quên ráo trọi, chỉ còn bồng bềnh đùi non, môi hé. Càng bồng bềnh nhiều, càng quên nhiều, càng khẳng định năng lực công tác, trình độ nghiệp vụ để mở đường tiến sâu vào biên chế chính thức. Và con bé say. Say ra mặt. Thỉnh thoảng nấc lên một tiếng cụt ngẫng. Có lẽ giống như tôi, con bé không uống được nhưng phải cố mà uống. Đây là trận đánh giành giật chỗ đứng, đây là yếu tố tiên quyết để tạo nên tư cách của một nhân viên nhà hàng, nôn mửa cũng phải móc họng ra mà uống, chết cũng phải uống. Quả vậy, thi thoảng, tôi thấy cô ta đứng dậy đi đâu một lát, khi trở lại, mặt mày có vẻ nhẹ nhõm hơn. Cái nhẹ nhõm của một kẻ vừa hoàn tất xong việc toilet hay ói mửa. Tôi tội tình, cô cũng tội tình dìu nhau qua cái buổi tối cuồng mê này? Như một con mèo ốm, cô nép nhẹ vào tôi, dựa đầu vào vai tôi, thở dài cầm lấy ngón tay cái của tôi lên nhấm nhè nhẹ giữa hai chiếc răng cửa nhỏ xíu, lạnh buốt. Rồi lưỡi… như lưỡi rắn. Rợn mình, tôi vội rút ngón tay ra khỏi cái miệng tươi như hoa đang có chiều úa héo ấy. Nào, tôi chôn vùi cảm giác. Bật lon đi, bật nữa đi cô bé, nữa! Tôi ngửa cổ uống. Vừa uống vừa đồng loã với cô lén đổ xuống gầm bàn, vất cả lon nguyên vẹn vào sọt rác. Mỗi âm thanh óc ách hay cục kịch từ dưới đất dội lên lại gây cho tôi một khoái cảm ngây dại, khoái cảm được trả thù ngầm. Trả thù ai, trả thù cái gì thì chính tôi cũng không biết nữa. 
    Một mũi giày thúc nhẹ vào cẳng chân tôi từ phía trước. Tôi ngẩng lên… Gã phó chủ tịch choai con vừa nháy nháy mắt với tôi vừa kín đáo lắc đầu. Vậy là gã biết tôi đang làm cái trò gì. Tôi cười nhệch. Ngượng quá! Rồi bỗng dưng muốn nổi quạu. Cũng vì những bản mặt viên mãn, bọng mỡ như gã mà tôi trở thành thất nghiệp sau khi đã cố tỏ ra nhã nhặn giáng vào giữa sống mũi tay tổng giám đốc ấy đủ bốn cái tát chia đều cho trái phải. Gã đã… mà thôi. Cái gì đã qua là cho qua! Chỉ nguyên việc chợt nhớ lại thôi là cũng đủ điên khùng muốn gây một cái án tử hình rồi. Tôi không uống nữa mà ngồi im. Một nỗi buồn xoáy nhức đột nhiên thổi rít ở trong đầu. Cái đầu ấy giờ đây rũ xuống điêu tàn như một con sâu rượu hết bề cứu vãn. Gã phó chủ tịch mồi một điếu thuốc ân cần đưa cho tôi. Tôi ngẩng lên và nhận thấy ánh mắt hắn thật vô tư và hiền lành. Như vậy hắn không lấy cái sự việc tôi đồng loã với con bé bóc lột hắn làm bận lòng. Tôi bỗng thấy vị nể. Gần đây tôi sinh bệnh hay nể nang những đứa lắm tiền. Có tiền là có phong độ, có cái uy nằm ở đâu không thể gọi tên trong dáng điệu, cử chỉ, trong mỗi kẽ răng. Nể lắm! Nể lắm! Thì từ lúc vào đây, tôi đã chả nhìn hắn với đôi mắt khác đi là gì. Thậm chí còn gượng nhẹ kêu hắn là Ông… Ông Ba thay cho kêu mày… Hắn nháy mắt. Mẹ kiếp, lại nháy mắt! 
    - Anh Hai… Anh tốt quá! - Hơi thở hoi hoi của cô gái luồn vào ngực tôi. Từ ngày vào làm ở đây, em chưa thấy một ai tốt, ai hiền như anh Hai… 
    - Cái gì vậy? Tôi hoảng hồn khi nhìn thấy một giọt nham thạch rơi xuống mu bàn tay sần sượng của mình, cháy buốt. Cô bé khóc. Khóc ngon lành. Đôi vai mảnh dẻ màu thạch cao để trần khe khẽ chao nghiêng. Nó khóc hay rượu khó? Cảnh giác, tôi đánh mắt nhìn sang: chẳng rõ nữa, chỉ thấy nước mắt nó rơi lã chã trong tiếng nấc cố kìm lại. 
    - Em khổ lắm!… Em đâu có muốn thế này… Chỉ vì má em, vì lũ em của em… Em không đi, chúng nó không có tiền học… Hức! Hức! Ruột gan tôi bất giác hức theo. Một niềm thông cảm mênh mông nhận chìm tôi xuống, rần rật chảy túa ra mấy đầu ngón tay. Tôi quờ quạng lục túi. Hơi men… Lời hát… Tiếng khóc… nước mắt… Cặp đùi… Cánh vai chim sẻ… Nhịp thở nghẹn ngào… hức! Ráo trọi những tiểu tiết lăn tăn đó đã cô lại thành cảm hứng mã thượng sẵn sàng vứt bỏ cuộc đời để sớt chia, để che chở. Nhưng khốn thay, bốn cái túi trên người tôi đều rỗng tuếch, nắn đi nắn lại vẫn chỉ có miếng giấy ghi vài ba cái địa chỉ của bạn bè, tấm vé tàu ngồi. Cái mùi giày lại hích, mạnh hơn một chút. Tôi nhìn lên Phó chủ tịch choai con mặt mày tỉnh bơ kín đáo tuồn nhanh cho tôi qua gầm bàn mấy tờ giấy bạc già trong kẽ ngón tay như làm trò ảo thuật, hai mươi tờ năm ngàn xanh đến dễ chịu. Tốt rồi. Tôi bỗng ngồi thẳng lên trong một tư thế khác và thật là tự tin, trầm tĩnh đẩy cho nắm tiền đi tiếp cuộc hành trình ảo thuật vào bàn tay cô bé đang chẳng hiểu vô tình hay cố ý đặt hờ trên đùi tôi. 
    Năm ngón tay thon gầy, trong suốt, móng sơn nhũ, cầm tệp tiền khẽ rung, thả ra… bấu chặt lấy và rồi im lịm. Cám ơn anh Hai! Từ cái miệng cong cong, bảng lảng chút hương vị của bia, của hành tỏi, của thuốc lá, của hạt tiêu, của đàn bà lượn toả vào mặt tôi ngầy ngậy nôn nao. Anh Hai! Tiếng nói nhớt nhầy từ miệng gã phó huyện trưởng bay qua mặt bàn cào gãi vào tai tôi nhồn nhột. Thấy thế nào? 
    - Cái gì thế nào? Nhậu hả? Tốt quá nhưng hơi tốn. 
    - Không phải - hắn chém mắt sang cô bé - muốn không? 
    - Muốn gì? Tôi đã bắt đầu ngờ ngợ. 
    - Lại còn gì. Đuỗn mặt ra thế kia là muốn hết chịu nổi rồi. Một đêm, một đêm chẵn với bé nghen! Rẻ thối. Trăm nghìn bạc mà được làm chủ cả một thân hình kiềm diễm dường kia thì ở ngoài anh Hai có nằm mơ cũng không ra, tán tỉnh cả đời cũng không được. Ưng nhé! Tôi bao trọn gói. 
    - Hả?… bậy mày! - tôi trừng mắt một cách yếu ớt. Nó đáng tuổi con, đừng nghĩ lộn xộn. 
    - Hớ!… đáng tuổi cháu cũng được nữa. Càng ngon, thơm thịt, nhai được cả xương. Thế nào? 
    - Dẹp đi! Lần này thì tôi gắt thật sự, phần vì lối nói chả chớt của gã, phần vì tôi không muốn cô bé nghe được. Uống xong, về! Bộ thằng Ba mày xỉn rồi hả? 
    Hắn không nói nữa, ngoác mồm ra cười một tràng như sổ ruột rồi thả rơi cái bụng ninh nính xuống giữa bốn cặp đùi non… ninh nính. 
    Con bé xem chừng đã hiểu, nó nắm lấy bàn tay tôi bóp bóp: 
    - Em biết ơn anh Hai nhiều! 
    - Cái gì mà ơn huệ? Vớ vẩn! - tôi quay lại, gắt nữa. 
    - Em… Em còn con gái. Em chưa có chồng. Em không thể… Sợ lắm! 
    Bất giác tôi cũng nắm trở lại bàn tay ấy, vỗ nhè nhẹ trong cảm xúc hào hiệp chợt loé chợt tắt như đốm trắng ma chơi, lại như có ngọn lửa đốt rừng cháy nổ lốp đốp ở đâu đó rất sâu trong lồng ngực. Chẳng dừng được, như có yêu tinh quỷ sứ đùn đẩy, mấy ngón tay tôi không rõ tại sao lại trượt hẫng xuống cái mảng trăng trắng, nóng hỉm ở phía dưới và thề có thánh thần, dầu cho lòng dạ lúc ấy vẫn sáng trong, nhưng vật thể còng queo đen đúa gọi là tay đó vẫn nấn ná dừng nghỉ đôi chút trong cái sởn da gà, mụ mị và ngây dại… 
    Đúng lúc đó, vâng, tôi nhớ là đúng vào lúc đó, một cái sởn da gà khác, mạnh mẽ hơn đã quật tôi ngay đơ trở lại. Trời ơi! Phải chăng cái điều chộn rộn mơ hồ từ lúc đầu đặt chân đến đây bây giờ đã xảy ra? Từ căn phòng kế bên, căn phòng rộng rãi, khang trang nhất, có ốp đá đen quanh tường, có đèn chùm đủ loại màu sắc, to nhỏ treo trên trần, có máy lạnh chạy rì rì, có riđô bằng nhung the xanh che kín các cửa sổ, căn phòng chuyên dùng để đón tiếp khách đặc biệt, bất thần nã thẳng vào đầu tôi một giọng nói đàn bà: 
    - Vui mừng cho ngành lâm nghiệp tỉnh nhà ăn nên làm ra, mở mặt mở mày với thiên hạ. Các bạn mặc sức vui hết mình. Say đâu nằm đó, ai muốn về, sẽ có xe đưa về tận nhà. Ai muốn ở lại, sẽ có phòng tươm tất nghỉ ngơi… 
    Tôi lắc mạnh đầu để cố giằng ra khỏi cái tiếng nói quỷ quái đó. 
    - Anh lạnh hả anh Hai?… Để em đưa anh Hai về phòng nghỉ một chút nghen! 
    Nằm nghỉ… Ai ở lại, có phòng tươm tất nghỉ ngơi… Vớ vẩn! Tôi tự mắng mình. Cô ấy chết ở miền Đông, đây lại là chót cùng miền Tây, hồn ma bóng quế có vật vờ thì nơi âm phủ lấy đâu ra phương tiện hiện đại như kiểu cái Toyota của thằng cha Quân để vật vờ xa xôi đến thế. Vớ vẩn! Láo khoét! Chết rồi. Chôn rồi. Chính tay mình cướp xác rồi cũng chính tay mình chôn chứ ai chôn mà còn ám ảnh bệnh hoạn? Mẹ khỉ! 
    - Cái gì khỉ ạ? - Cô bé tròn xoe đôi mắt còn rớm nước hỏi. 
    - Không… Không có gì. - Tôi cười, lắc đầu, vỗ khẽ vào đầu gối cô, lần này là một sự vỗ hoàn toàn tinh khiết chất cha con. 
    Từ phòng bên rầm rộ vang lên một tràng vỗ tay rồi sau đó là một cơn lốc tung hô: 
    - Hoan hô! hoan hô bà giám đốc chịu chơi đệ nhất sáu tỉnh miền Tây. 
    - Sai! Đệ nhất nước Nam. Các quý vị khả kính thử đốt đuốc đi tìm xem cả cái đất nước quê mùa này có ai chịu làm, chịu chơi, tài sắc vẹn toàn như chị Tư của chúng ta không? Không! Chắc chắn là không? Tôi dám lấy đầu ra để cuộc như vậy. Bà chúa rừng xanh. Bà tiên tốt bụng của những sinh linh làm rừng nghèo khổ. Hoan hô! 
    - Một ly này xin chúc sức khoẻ và ý chí cũng như tấm lòng nhân ái của bà phó chủ tịch tương lai. 
    - Không! Bà chủ tịch. 
    - Bà bí thư tỉnh uỷ. 
    - Còn tôi, với cái logic nghi trường đang mở ra thông thoáng, đang rất cần những năng lực thực sự cho công cuộc đầu tư ào vào như thác lũ, tôi là xin cứ mạnh dạn nâng ly chúc sức khoẻ đồng chí uỷ viên trung ương là vừa. 
    - Hoan hô! Hoan hô tầm nhìn của nhà báo. Tôi là nhà khoa học, tôi cũng xin chúc mừng đồng chí nữ uỷ viên trung ương Đảng trẻ tuổi nhất, can đảm nhất, giàu năng lực nhất và đẹp nhất quốc gia. 
    - Khoan! Tôi có ý kiến này. Chúng ta chỉ lo chúc tụng tung hô mà không nhìn ra chị Tư có những khiếm khuyết cơ bản gì à? Không được, trên tinh thần nói thẳng nói thật, tôi xin phê bình đồng chí giám đốc quá chú trọng vào công việc mà ít để ý đến cá nhân. 
    Ầm ầm ào ào, nhựa nhựa khê khê... Giữa trăm nghìn âm thanh của tiệc tùng, của xưng tụng đắm đuối đó, bỗng lại bật lên một tiếng nói không thể trộn lẫn được, tiếng nói ngọt sắc ở âm tiết cuối. 
    - Tôi xin các anh, các anh vì thương mà cứ nói quá lên như vậy, nghe kỳ lắm! Tôi vẫn là tôi, trước sau gì rồi vẫn là tôi, là Tư Lan, một lòng một dạ với bà con nghèo khổ, với sự nghiệp làm giàu của tỉnh nhà… 
    …Anh Hai thương em thiệt hôn?… Thiệt! Thương nhiều lắm! Thương hơn cả mạng sống của anh. Sau này em có ốm đau què cụt anh vẫn thương. Dóc! Dù đời em có vào tù ra tội, anh càng thương. Dóc nữa! Và ngay bây giờ em có biến thành con trai, thành đàn ông dị dạng đi nữa, anh vẫn thương… Bậy rồi! Anh Hai thương mà cứ nói quá lên như thế nghe kỳ lắm! Em vẫn là em, bao giờ cũng là em, một con bé Sương ốm yếu, hay mắc cỡ, hay giận hờn làm khổ anh thôi… 
    Vòng lò xo han gỉ của ký ức đánh bật tôi ra khỏi ghế… 
    - Ý, đi đâu đó anh Hai - cô bé ngước khuôn mặt sáng như một mảnh trăng lên hỏi. 
    - Toa… Toa-lét. 
    - Để em chỉ chỗ cho. 
    - Khỏi. Cái đó mà cũng phải chỉ ư? Đột nhiên tôi xẵng giọng. 
    Mới loạng quạng đi được dăm bước… 
    - Xin lỗi! Phòng này không vô được. 
    Một giọng nói khàn khàn, lạnh lẽo và đầy uy lực chặn tôi lại. Đó là một gã to con, to con như Mỹ, vận bộ đồ nửa cảnh sát, nửa phòng thuế đang đứng hút thuốc âm thầm ở ngay nơi cửa ra vào. Con người này, giọng nói và vóc dáng khổng lồ này không dè lại dính dáng đến tôi trong suốt câu chuyện, xin các bạn lưu ý giúp cho. Còn lúc ấy thì tôi nổi cáu: 
    - Sao không vô được? Nhà hàng hay trụ sở công an? 
    - Anh ở đâu? Vô có việc gì? - giọng hỏi lạnh lẽo hơn. 
    Một cụm từ nở toác trong đầu: 
    - Khách của giám đốc. Ban thanh tra bộ. 
    Nói xong, tôi mới thấy trống trếnh cả người. Trời ạ! Nhà hàng sang trọng thế này, khách khứa toàn loại xịn, áo quần mặt mũi như tôi mà dám xưng là thượng khách thì thật là… Cũng may, gã dòm chừng tôi từ đầu đến chân một chút rồi lầm lì tránh qua một bên: 
    - Mời vào - và tiếp liền một tiếng làu bàu dính nhớt sau ót - thanh tra thanh triếc, dòm như cái đồ ăn mày! 
    Ăn mày, kệ bố tao, miễn là mày đã đứng tránh sang một bên. Bàn chân đi dép đứt quai của tôi dừng sựng rồi lại tiếp tục chuyển động. Khỉ khô! Cả đời trả giá cho tính hoàng bào chưa đủ sao mà tới tận đây còn định nổi nóng? Lặt vặt! Kệ mẹ nó. 
    Len lén luồn qua những tấm lưng ngắn dài, gầy béo, vàng đỏ tím, Ông thanh tra bộ kiếm một chiếc ghế nẻo khuất ướt nhoe nhoét, ngồi xuống. 
    Và bỗng thấy chóng mặt dữ dội. Nếu không vì sức quyến rũ của giọng nói ma quỷ kia thì từ lâu, tôi đã không chịu nổi cái mùi này. Một thứ mùi vị quan dạng, sung mãn, mốc mác và no nê đến tột cùng. Nó giống cái mùi tanh tanh lờm lợm của cây lá vừa bị mảnh B52 phạt trụi. Có thể liên tưởng ấy là bệnh hoạn, là quá khích nhưng ở tôi nó đúng là như vậy. Hơn như vậy. Nhưng đó là chuyện mùi vị, xin bạn đọc bỏ quá cho sự lan man già cỗi của tôi, còn lúc ấy, xuyên qua những làn khói thuốc sền sệt, xuyên qua một cánh rừng tay ngắn dài đen trắng, trồi sụt, qua ngàn vạn tiếng ồn chát chúa, cuồng nộ của một bãi đào vàng, đào đá đỏ, qua luôn cả những đôi mắt tròn đẹp, vằn lên tia sáng ngưỡng vọng, tia ganh tị của đám lục lâm hướng về chủ tướng, tôi thấp thỏm sục tìm khuôn mặt có giọng nói ấy… Vừa sục tìm, tôi vừa mong rằng không phải là nó nhưng lại thầm hy vọng rằng nó chính là nó. 
    Không phải nó, chuyện ấy thường rồi, tôi lại sẽ thanh thản trở về bàn nhậu bên cạnh con bé ngọc ngà đẫm nước mắt của tôi. Nhưng nếu, điều này chỉ có thể xảy ra ở cái tỷ lệ một phần triệu, đúng là nó thì sao đây? Trời ơi! Cả một trái núi khổng lồ những kinh ngạc, những nghi vấn, khổ sở… sẽ cùng một lúc ập xuống tôi. 
    … Các bạn và các đồng chí lần sau trở lại với chúng tôi, có thể tin rằng nơi đây sẽ hoàn toàn đổi khác. Nó sẽ trở thành một thị trấn, một thị xã, thậm chí một thành phố rừng. Khi đó… 
    Lại vỗ tay rôm rốp, lại đập bàn đập ghế, lại tung hô om sòm… 
    - Hẳn rồi. Nhất định là sẽ đổi khác đến sững sờ rồi. 
    - Tôi đề nghị: Ở trung tâm cái thành phố rừng tương lai đó sẽ tạc một bức tượng đàn bà bằng gỗ trắc pha cẩm lai. Tượng bà Tư Lan, bà chủ của những cánh rừng nghèo kiệt. 
    - Tuyệt! Một ý kiến hay. Tạc đi! Sẽ mời một nhà điêu khắc giỏi nhất quốc gia tới đây. Tất nhiên không phải là cái cha làm tượng Bác ở bến Ninh Kiều rồi. 
    Trước cái nhìn loà nhoà mắt cận mắt viễn của tôi là một người đàn bà đứng tít xa ở tận góc phòng đằng kia. Vừa nhìn thấy bà ta, tôi bỗng thoắt rùng mình, tưởng như vừa nhìn thấy một hình ảnh rất đỗi quen thuộc ở sâu lắm trong tầng ký ức. Nhưng nhìn kỹ lại, giống một ảo ảnh, cái hình tượng ấy dần dần biến mất, rồi biến hẳn. Sương của tôi ngày xưa mảnh khảnh gầy gò, chỉ có đôi mắt là to song cái nhìn bao giờ cũng e lệ, rụt rè. Sương ít nói lắm, nếu phải nói thì cũng là những tiếng nói nhỏ nhẹ như nói thầm và điệu bộ nữa, lúc nào cũng ẩn vào, co vào thật sâu trong mình. Còn ở đây là một người đàn bà trên bốn mươi tuổi, đậm người nhưng gọn, mái tóc dày dặn chải lật ra sau để lộ vầng trán đẹp và sáng, một chiếc sơ mi màu xanh nhẹ cắt khéo, kiểu may nền nã, không quá cầu kỳ nhưng cũng chưa đến nỗi úi xùi. Trên cái cổ tròn và trắng như cổ của một cô nữ sinh, là một khuôn mặt sang trọng và thanh nhẹ, một đôi mắt thông minh, nhân hậu đấy mà cũng sắc sảo uy nghi đấy, đặc biệt là cái miệng đang nói rất có duyên, hàm răng đều và trắng, có một chiếc bịt bạc ở gần cửa miệng, chỉ phải khoé môi thỉnh thoảng nhíu lại thành một nếp hằn chạy ngược lên má trông khắc khổ và hơi ang ác một tí, một tí thôi chứ nhìn chung đó là một khuôn mặt phụ nữ dễ nhìn, dễ gần và cả dễ thương nếu như đôi mắt kia không lúc lúc lại toả ra những ánh buồn khác lạ, một cái buồn day dứt, miên man, ẩn vào trong, không rõ hình thù, buồn ngay cả trước mọi lời tung hô, tán thưởng như lúc này. 
    Tôi thở phào đứng dậy, lại len lén đi ra. Thế là không phải rồi! Làm sao có thể phải được kia chứ? Rõ thật là dớ dẩn! Mười sáu năm trời mới lò dò trở lại bưng biền quen thuộc, nhìn đâu cũng thấy lởn vởn những kỷ niệm đau buồn cả. 
    - Toa-lét! 
    Không để cho gã vệ sĩ hay một cái gì đại loại như thế kịp ấn cái phản ngực nở vồng, khét lẹt vào mặt, tôi độp luôn, làm như mọi chuyển động ở đây chỉ gói gọn vào một hành vi ỉa đái. 
    - Nhân có anh Chín bí thư tỉnh uỷ ở đây, tôi cũng xin vui mừng thông báo về chuyến đi Hà Nội gặp đồng chí phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng vừa rồi. Nói chung là hết sức tốt đẹp. Đồng chí hứa là sẽ chấp nhận cho ta ký trực tiếp với hãng Uây-nết Rao của Australia một khu chế xuất gồm 800 nhà máy lớn nhỏ nằm tại ngay mảnh đất ven rừng này. Nếu trôi chảy, báo cáo anh Chín và các anh, ta có thể bắt tay vào khởi công ngay đầu năm tới. Tôi đã nghĩ đến một khách sạn ba sao, không, phải là năm sao của tỉnh ta, bắt đầu vào thiết kế dần đi là vừa… 
    - Nết-Rao của Australia ư? Chao! Mới ngày nào còn nện nhau chí chạp mà giờ đây tiếng Australia đã vang lên mới trọng nể làm sao! 
    … Anh Hai! Vùng này có lính Đại Úc mới điều về. Nó không ác bằng thằng Đại Hàn nhưng chỉ lắm! Nó cũng có thể ở trần bôi lọ, cũng dám dìm người hết ngày này qua ngày khác trong sình lầy hôi thối để phục kích bằng được mình. Y như lính đặc công đàng mình ấy. Anh nói bộ đội đi đứng kỹ càng nghe! Chớ để mất ngón tay! Tại sao tôi có thể sơ ý được điều ấy nhỉ? Ngón tay… Với vẻ mặt của một kẻ vừa giẫm phải bò cạp, tôi hoảng hốt ngoắt người lộn trở lại. 
    - Gì nữa đây? - cái phản ngực hỏi như giáng búa tạ vào mặt. 
    - Hết muốn đái rồi. Có sao không? - tôi vênh mặt lên. 
    - Cái ông này kỳ cục! Vô thì vô luôn, đừng qua lại lộn xộn. 
    Lộn xộn cái thằng cha mi! Tôi chửi thầm và luồn qua nách nó, cái nách sặc mùi nước hoa ngoại hắc xì, rồi chen lách lên phía trước, phía cái rốn bão của sự tung hô và mùi vị viên mãn. 
    Người đàn bà ấy vẫn đang nói, tiếng nói nhỏ đi, nhẹ đi như đã ra cái chiều mệt mỏi, một bàn tay giơ lên xắn mềm mại, đầy giới tính vào không khí… Bàn tay phải! Tôi vội nhìn ngấu nghiến vào đó… Và, trời ơi! Chả lẽ đó có thể là sự thật được ư? Rõ ràng trong ánh sáng ma quái của hàng chục ngọn đèn tuýp nửa tím nửa xanh, bàn tay ấy phình to ra, đỏ bầm, thiếu một ngón, ngón trỏ, tiến sát lại, vả thẳng vào mặt tôi đến sa sẩm, đến tối tăm đầu óc. Vòng lò xo han gỉ của ký ức lại bung mở cái reng! Tôi nhao người đứng bật dậy, miệng ngáp ngáp theo cái kiểu của người đã uống no một bụng nước: Sương… Ba Sương… Có đúng Sương không? Sao lại thế… Cái phản ngực từ đâu lững thững hiện đến như chiếc xe lội nước M13, ấn bẹp tôi xuống. Cái ông già này kỳ cục! Đang không đứng dậy làm chi vậy? Kệ! Tôi lại đứng. Con ngươi như muốn lồi ra khỏi tròng. Ngón tay… Kìa, ngón tay! Sao lại… Ngón tay? 
    Chắc lúc ấy dòm bộ dạng và nghe cái cần cổ đang phát ra những tiếng khè khè như rắn mai gầm của tôi kỳ cục thật nên các vị quan đầu tỉnh bắt đầu quay lại, ngơ ngác, thì thầm xôn xao… Người đàn bà cũng đột ngột ngừng lời… Trong một giây, hai ánh mắt va nhau cái rầm! Và cùng lật nghiêng. Chỉ khác, nằm tênh hênh dưới lề đường, mắt tôi chợt nhắm nghiền lại trước độ loá sáng dữ dội của sự thật hiển nhiên, của bàn tay thiếu ngón vừa rụt vội lại, bối rối giấu xuống cạnh bàn. Trời ơi, nếu trước đó một giây, tất cả đang còn chìm trong sương mù ảm đảm thì giờ đây bàn tay kia, được thêm sự phụ hoạ đắc lực của giọng nói đã làm nổ tung lên hết thảy, soi tỏ hết thảy, soi từ tiểu tiết đến tổng thể, không thể trộn lẫn với một ai khác. Đôi mắt kia đang nhìn lảng đi sau một khoảnh khắc tối sầm, chấp chới xẹt qua rất nhanh. Tiếng nói của bà thấp xuống đến âm u: 
    - Anh thử đến hỏi xem người kia là ai? Ông ta cần gì? Nếu xỉn rồi thì đưa ra ngoài giùm. 
    - Dạ! - Cái phản ngực không nhúc nhích, trên môi thoáng một nét cười bí hiểm. Ông ta kêu là ở ban thanh tra bộ và cứ lắp bắp gọi một cái tên Sương nào đó. 
    Một đám khói màu da cam đột nhiên trôi qua, phủ đầy vào mắt người đàn bà. Sau một thoáng rùng mình ớn lạnh, bà ta cười, lắc đầu, vẻ mệt mỏi: 
    - Thanh tra bộ à?… Sao lại có thanh tra bộ ở đây? Tội nghiệp! Chắc lại là một ca hội chứng chiến tranh đó thôi. Thôi được, không cần biết là ai nhưng mà đã đến đây thì coi như là khách. Anh làm ơn đưa ổng về phòng nghỉ và nói rằng ở đây không có ai tên Sương hết. 
    - Rõ! 
    Trong chớp mắt, chưa kịp nói, chưa kịp nghĩ gì hết, cái thể xác suy nhược trầm trọng của tôi đã được gần như ủi bắn ra ngoài… 
    Cô bé thích ngậm mút ngón tay cái của giống đực hồi nãy đón tôi ngay tại phòng với vẻ mặt lo âu thực sự. 
    - Ủa! Anh Hai làm sao vậy nè? Chết, trúng gió rồi. Đã bảo để em út đi mà không cho. Đi, vô phòng đi anh để em bôi dầu cho. 
    - Không sao! Tôi cười gượng. Này, cô bé có biết cái bà đang nói ở phòng kia không? 
    - Dạ, biết chớ! Bà Tư Lan, cả tỉnh này ai không biết. 
    - Tư Lan à? Bà ấy còn có một cái tên nào khác không? 
    Cô bé cười thật tươi: 
    - Trời ơi! Thân phận như tụi em làm sao tỏ tường được tên tuổi của các bà lớn như thế, anh Hai! Nhưng mà anh Hai hỏi làm chi vậy? Bị bà hớp hồn rồi hả? Phải thôi. Bà đẹp mà, lại chưa chồng nữa. 
    - Bà ấy người ở đây hay ở nơi khác đến? 
    - Chắc là người ở đây. Nghe giọng nói là biết. 
    - Giọng nói nào? 
    - Ủa! Sao anh Hai trợn mắt lên nghe sợ quá vậy? Giọng nói chớ giọng nói nào nữa. Chỉ có dân vùng Sông Hậu mới có cái giọng như thiên hạ kêu là Nam Bộ rặt như thế. Từ Bắc Mỹ Thuận trở lên, tiếng nói nghe nhẹ hơn, đến Sài Gòn thì bắt đầu lai giọng Hà Nội rồi. Sắp bị Hà Nội xâm lược lần thứ hai rồi - Cô cất tiếng cười thật giòn. 
    … Em với chị Hai Hợi không phải là dân xứ này đâu. Chỉ là dân đi làm cách mạng thuê thôi… Hình như có một lần nào đó, em đã nói với tôi như thế? 
    Còn đầu óc nào để cười theo tiếng cười của cô gái cho phải phép lịch sự nữa, tôi cứ để mặc cho dòng chảy của sự nghi hoặc ngổn ngang cuốn hút: 
    - Hỏi thêm một câu nữa: Ngón tay trỏ của bà ấy sao lại bị cụt như vậy? 
    - Anh Hai đi mà hỏi - Lại cười - Nói đùa thôi. Bả bị tai nạn xe máy, lâu rồi. Cô cửa hàng trưởng nói như vậy. 
    - Thôi được, cám ơn cô bé! 
    Tôi lại sờ tay vào túi định làm một cú puộc-bao trống rỗng như hồi nãy nhưng kịp nhớ ra nên đành tặc lưỡi. Vào đi! 
    Nhìn thấy tôi, gã phó huyện trưởng vươn vai đứng dậy, xương kêu răng rắc, rút từ ca-táp ra một xấp bạc xanh lè quẳng xuống bàn: 
    - Thiếu chịu. Thừa, boa luôn cho mấy em. Bảy trăm nghìn. Được chưa? Thôi, mình bai đi anh Hai! Thị xã về đêm còn nhiều cái lạ, không nên nấn ná mãi một chỗ, phí hoài! 
    Dù lòng dạ đang còn nhiều ngổn ngang, theo đúng thói quen của cả một đời khắc kỷ và tằn tiện, nhìn đám giấy bạc đó tôi không thể không hít hà. Bảy trăm… Gần một triệu cơ à? Đâu? Làm gì tới chừng ấy? Một phần ba hoặc cùng lắm, chỉ đáng một nửa. Mà tôi đã no đâu? Đã ăn được gì đâu? Gần triệu bạc mà còn đói ư? Bố khoét!… Thôi, nhưng mà kệ nó, kệ bọn trọc phú mới, nó mạnh tiêu thì mạnh làm, mình biết cái gì mà xót ruột hộ. Tôi kéo tuồn tuột hắn đến trước cửa căn phòng lộng lẫy ấy. 
    - Cậu còn nhớ Ba Sương không? 
    - Ba Sương nào cà? - Hắn hỏi mà miệng cười cười. 
    - Ba Sương y tá, rồi xã đội trưởng, rồi lại y tá… Ba Sương, em bà con của Hai Hợi, cô gái đẹp nhất rừng ấy. Nhớ chưa? 
    - Thì cứ từ từ. Coi nào? Sương… Ba Sương… Đẹp nhất rừng… A, nhớ. Nhớ rồi. Nhưng sao? Bả chết rồi mà? 
    - Vào đây - Tôi dìm đầu hắn chúi sâu vào khe hở - Nhìn đi! Nhìn kỹ đi. Cái bà đang nói kia kìa, tóc vấn cao, mắt buồn buồn đó. Nhận ra ai không? 
    Hắn cười sặc lên một tiếng: 
    - Cha mẹ ơi! Bà Tư Lan, giám đốc sở nông lâm, làm ăn nức tiếng lục tỉnh miền Tây chớ Ba Sương nào! Anh Hai say rồi, quáng gà rồi. Đi thôi! 
    - Khoan! - Tôi cố sức ghì cứng ngực áo hắn lại - Nhưng mày có thấy bàn tay có một ngón cụt kia không? 
    - Có. Cụt thui lủi. Cụt ngắc. 
    - Ba Sương cũng có ngón cụt vậy. 
    - Hô… Ha… - Hắn gập bụng xuống mà cười - Dui dẻ quá xá! Ở cái xứ Nam Bộ này có tới hàng tỷ người cụt ngón. Em cũng cụt đây thôi - Hắn đưa bàn tay mất hai ngón lên. Chỉ sợ cụt cái kia chớ cụt ngón nhằm nhè gì. Cái chính là bả chưa… cụt ngực. Anh thấy không? Bà lớn tuổi rồi mà ngực còn ngon như bọn con gái mới lớn. Há! Nhưng mà nè! Bộ anh… anh ngủ với bả rồi sao mà mặt mũi nhớn nhác thế kia? Chắc đã hả? - Chợt thấy vẻ mặt chắc là thiểu não lắm của tôi, hắn không cười nữa - Nói đùa, thời ấy em còn con nít, lại ở tít trạm giao liên trên căn cứ, chị Ba nằm lút dưới vùng giáp ranh với tụi anh, lâu lâu mới gặp một lần, toàn gặp ban đêm, gặp vội như chó đạp lửa, đâu có biết mày ngang mũi dọc, chân tay thiếu ra làm sao. 
    - Về! 
    Tôi bỏ hắn đó, đi nhanh ra cổng, vừa như muốn trốn chạy khỏi ám ảnh nặng nề, vừa muốn tin cái miệng đã nói cạn nửa két bia kia là xác thực. 
    Con bé Quỳnh Dao vẻ chừng đang có ý đứng chờ tôi ở bên kia đường. 
    - Cô đấy à? Có gì không? - Tôi hỏi để mà hỏi. 
    Con bé nhìn xuống một chút rồi ngước lên, rụt rè: 
    - Anh Hai đi bao lâu trở lại? 
    - Không biết. Có thể vài tháng, một năm, hai năm, có thể… ba năm (tôi định nói có thể không bao giờ). 
    - Ôi… Ba năm!… Sao lâu thế? 
    Tiếng "ôi" và tiếng "thế" nghe ra có vẻ bịn rịn thật sự, dù rằng tôi vẫn biết đó chỉ là một thứ kỹ thuật níu kéo của bất cứ cô sẹc-via nào. Ăn kỹ thuật, uống kỹ thuật, hát kỹ thuật, ngậm ngùi mùi mẫn… hết thẩy đều kỹ thuật. Nhưng sao giọt nước mắt rơi xuống mu bàn tay tôi lai bỏng buốt đến thế? Chả lẽ bỏng buốt cũng lại là kỹ thuật nốt ư? 
    - Có thể anh Hai cũng quan niệm (Cái gì mà quan niệm? Hỏng quá! Từ ngày giải phóng đến nay, các cô gái Nam Bộ bắt đầu nói năng cứng ngắc như một cán bộ đoàn chuyên trách mất rồi!) em giống như mọi đứa con gái khác một khi sa chân vào đây - Giọng con bé thật rầu rĩ - Nhưng… Mà thôi, dần dà rồi anh Hai sẽ hiểu. Mong được gặp lại anh… Anh Hai đi mạnh giỏi, em về. 
    Nói rồi, với dáng hình đẹp và buồn đúng như nhân vật u trầm của Quỳnh Dao, cô gái đi xiêu xiêu sang bên kia đường. Nơi đó có một thằng nhỏ khoảng 14, 15 tuổi, vận may ô quần cụt, dáng chừng là em trai hay cháu chắt gì đó, đang ghếch chiếc xe đạp tàng tàng đứng chờ. Thoáng chốc, hai cái bóng nhỏ bé đã khuất dạng ở đầu con đường khuya khoắt. 
    Tôi bỗng thần người ra nhìn theo… Mọi ác cảm về cô bé được tích tụ đầu tự dưng lở vữa dần ra. Cũng là một nỗi niềm ngang trái, cũng một thân phận nhọc nhằn, sao lúc chia tay tôi lại không nói được một câu ngọt ngào? Và cái bỏng buốt kia biết đâu lại chả hết sức tội tình, dấu hiệu chân thật của một đứa con gái nhà lành phải lao vào bụi bặm để quấy quả kiếm ăn, để nuôi em, nuôi mẹ? 
    - Lên xe, ông! - Gã phó chủ tịch vỗ mạnh vào vai tôi. 
    - Chưa! 
    - Sao vậy? Con nhỏ người Hoa hớp hồn rồi hả? 
    - Người Hoa à?… Con gái người Hoa mà cũng phải… 
    - Hoa lá gì rồi cũng phải kiếm sống hết. Đi! Cỡ này ở đây nhiều, cho ông mặc sức chọn. 
    - Cậu đi trước đi. Mình… Đêm nay mình muốn thả bộ một chút. 
    - Nữa! Để hoài niệm cố nhân thông qua khuôn ngực trinh nguyên của bà giám đốc chăng? 
    - Ừ. 
    - Được. Kệ cố nội ông, nhưng đừng quên đường về nhà khách uỷ ban nghen! 
    Chiếc Toyota màu kem sữa của hắn vút đi được một lúc thì đám đãi vàng trong kia cũng lắng dần rồi lục tục giải tán. Ồn ào, ngả ngớn, bắt tay, chia tay, lệt xệt, hứa hẹn, tái ngộ, hạnh ngộ, cảm ơn, biết ơn, um sùm, rổn rảng, cười nịnh, nhắn thêm, nhờ cậy… Cả kiểm kê: mẹ! Đúng là tay chơi thứ thiệt. Ông biết phong bì bao nhiêu không? Ba trăm! Ba trăm cộng với bữa nhậu mỗi thằng ít nhất tới hai trăm, vị chi là năm trăm. Được! Đúng là phong độ thủ lĩnh đang kinh bang tế thế. Nếu cần một phiếu đưa bả lên chủ tịch hay bí thư, bọn mình có ngay. 
    Cô ta, đang đứng ở một bên cửa, thấy tôi và máy móc đưa tay ra. Tôi vồ ngay lấy bàn tay ấy, siết chặt… Trong thoáng chốc, một luồng điện cao thế xốc mạnh lên óc tôi choáng váng… Vẫn những ngón tay quen thuộc ấy, vẫn độ ấm nóng và có đôi chút mồ hôi rịn ra ở lòng bàn tay ấy tuy giờ đây nó trắng trẻo, mềm mại và thơm tho hơn. Giữ trọn luồng điện đó, tôi dội thẳng cái nhìn vào mắt cô ta, đôi mắt luôn luôn phảng phất nỗi buồn không gọi tên ra được: 
    - Sương… Ba Sương… Không nhận ra tôi ư? Tôi đây, Hai Hùng! 
    Một thoáng rùng mình chuyển mạnh xuống bàn tay mà tôi đang nắm… Một thoáng co giật trên gò má thoa kem phơn phớt hồng… Lại một thoáng sa sầm u tối trong tầng sâu đáy mắt… Rồi vẻ mặt người đàn bà quyền quý trở lại nét lạnh tanh rất nhanh. 
    - Vẫn lại là ông đấy ư? Chả lẽ ông lại muốn để tôi phải nhắc lại rằng ở đây không có Sương có khói nào hết mà chỉ có Lan, Tư Lan, giám đốc sở nông lâm thôi? Kỳ quá! 
    - Không! - Nhiệt huyết lính chiến một thời trong tôi quẫy cựa bướng bỉnh - Em là Sương. Em phải là Sương. Đối với thiên hạ em là Lan nhưng đối với tôi, riêng tôi thôi, em bao giờ cũng là Sương. Gần hai chục năm trôi qua, cho dù hình dáng em có đổi khác đi như thế nào nhưng chỉ cần nghe em nói, nhìn miệng em cười, nắm bàn tay em, nhìn sâu vào mắt em là đủ cho tôi biết em vẫn là em, là em hoàn toàn từ mạch đập bên trong mà chỉ mình tôi mới nhận ra được. Trời ơi!… Chả lẽ em vẫn còn sống thật ư? Phép màu nào vậy? Tôi đang mê ngủ hay đang thức dậy? Cái lần ấy… 
    - Ông đang mê ngủ đấy ông thanh tra bộ ạ! - Thằng phản ngực từ đâu bỗng nhiên hiện ra trước mắt tôi, ẩy sấn tôi ra ngoài mặt đường - Mẹ kiếp! Muốn ăn mày ăn nhặt thì quỳ xuống, thì mở miệng ra mà xin, may ra người ta còn thương hại. Đằng này lại muốn ăn mày kiểu trí thức, kiểu tống tiền, kiểu tình thương yêu nọ kia à? Thế thì cút! Cút ngay, không tao xách cổ đến đồn cảnh sát bây giờ. Cút! 
    - Không!… Kìa, tôi tôi… 
    - Không tôi tớ gì hết. Cút ngay! 
    Chắc nghĩ rằng nếu mạnh tay một chút sẽ phạm pháp hoặc có thể sẽ gây ra án mạng ở một thân hình rất dễ bất đắc kỳ tử như tôi nên phản ngực chỉ dùng vai đẩy nhẹ. Vậy mà khốn khổ, cái thể xác nặng chưa đầy 45 kg của tôi đã giúi giụi xiêu bạt sang đến tận lề đường bên kia. “Thôi, Địch!” Nếu lúc ấy người đàn bà không khẽ kêu lên một tiếng như thế thì có lẽ, với cú ẩy thứ hai, cái thằng tôi sẽ bị bắn thẳng sang bên kia sông hoặc bắn về chính nhà khách uỷ ban, nơi gã phó chủ tịch choai con đang ngồi đợi. 
    Đứng chênh vênh giữa lòng đường nhìn theo chiếc Ladalat chở thày trò, cứ tạm cho là thế, bà giám đốc bon ràn rạt về phía ngã năm chói chang ánh đèn, tự dưng tôi nhếch miệng ngẩn ngơ cười… Địch… Mẹ nó! Tên là Địch có khác, khoẻ kinh người. Khoẻ thật! Nó kêu mình là gì ấy nhỉ?… Ăn mày à? Ăn mày… nghe đã sướng chưa? Nhưng đúng quá đi rồi. Ăn mày. Kẻ ăn mày dĩ vãng! Hơ!